- Vụ việc, Vụ án: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
- Loại vụ việc: Sơ thẩm
- Số hiệu: 43/2013/HC- ST
- Ngày tuyên án: 23-12-2013
- Kết quả vụ việc: Bác (toàn bộ) yêu cầu khởi kiện
- Luật Tố tụng hành chính số 64/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (khoản 1, Điều 28; Điều 29; Điều 123; Điều 145, khoản 2 Điều 146, khoản 1 Điều 176)
- Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/07/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng hành chính (Văn bản hết hiệu lực)
1698/2016/HC-ST: Khiếu kiện Quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
- 4112
- 49
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Nguồn gốc đất căn nhà số 117 đường số 3, cư xá Thanh Đa, Phường 27, quận BT, Thành Phố HCM là đất của cha bà NĐ_Ngô Hà Phương Thư- ông Ngô Viết Tư khai phá, canh tác từ năm 1975 và làm nhà để ở vào năm 1976. Năm 1989-1990 khi các con lập gia đình, cha bà NĐ_Thư đã chia cho mỗi con một phần để ở, bà NĐ_Thư được chia khoảng 48 m2. Cha bà NĐ_Thư cùng gia đình đã ở trên diện tích đất này và sử dụng ổn định liên tục, không có tranh chấp đến ngày duyệt phương án bồi thường đoạn 1.4 ngày 19/4/2011 là đã 36 năm. Việc sử dụng đất đã được địa chính phường, Ủy ban nhân dân và công an Phường 27 quận BT xác nhận. Trong suốt quá trình sử dụng, gia đình bà NĐ_Thư không nhận được bất kỳ một thông báo hay văn bản ngăn chặn vi phạm lấn chiếm nào của cơ quan chính quyền các cấp và không vi phạm Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.
04/2015/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 2471
- 34
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Căn nhà 1009/BL/11/T7/K9) LG, Khóm 9, phường BT, Quận X năm 2008 có thông báo đổi số nhà 1009/11BL số mới 56B LG, Phường 8,Quận X nên là một căn nhà do meï chồng bà tên Huỳnh Thị Ngài mua từ năm 1975 mua của ông Ngô Văn Thành, có giấy tay mua bán diện tích căn nhà là 71 m2 có cấu trùc: mái tole, vách tường + tole, nền gạch bông, có gác lưõng, nhà có 4 anh chị em cùng ở, còn cha chồng tên Lưu Văn Thính chết 1968. Năm 1978, bà lấy chồng là ông LQ_Lưu Văn Ngân rồi về ở tại căn nhà này, khi về ở thì phía sau đã có saün sàn nước diện tích 12,73m2 nên không mở rộng diện tích không xây dựng gì thêm. Năm 1982, mẹ chồng bà mất thì nhà này chưa làm thủ tục hợp thức hóa chủ quyền. Cũng trong năm 1982 chị chồng của bà là Huỳnh Thị Hai được chia thừa kế 1 phần diện tích là 28 m2, còn phần diện tích còn lại 43m2 vợ chồng bà sử dụng, các anh chị em khác là bà LQ_Lưu Thị Chi và ông Lưu Văn Minh không tranh chấp và ở riêng.
05/2015/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 2377
- 39
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Căn nhà số 1009/6BL LG, phường 8, Quận X, thành phố HCM (số cũ) số mới 50B LG Phường 8, Quận X, thành phố HCM do vợ chồng bà NĐ_Sa mua lại của ông Võ Văn Cẩn vào năm 1962 diện tích là 71,05 m2, không lập văn tự mua bán, hai bên giao tiền và nhận nhà trực tiếp, caáu truùc nhà: mái tole, gác gỗ, tường gạch + vách caây, nền xi măng, gia đình bà NĐ_Sa được chính quyền chế độ cũ cấp tờ khai gia đình trước 1975. Căn nhà này từ khi mua đến nay gia đình bà NĐ_Sa và các con sử dụng ổn định lâu dài, không có tranh chaáp. Năm 1996 chồng bà NĐ_Sa là ông Nguyễn Văn Mỹ chết nên nhà này do bà NĐ_Sa và các đồng thừa kế của ông Mỹ đang sử dụng.
1762/2016/HC-ST: Khiếu kiện Quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
- 2125
- 39
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Theo đơn khởi kiện ngày 10/9/2012, bản tự khai và các biên bản đối thoại, đại diện người khởi kiện – bà Cao Vân Trúc trình bày: Nguồn gốc đất căn nhà số 7/28 TĐ, Phường 27, quận BT, Thành Phố HCM của ông NĐ_Cao Văn Khánh và bà NĐ_Nguyễn Thị Hà là thuộc quyền sử dụng của ông Võ Thành Chơn. Ông Chơn là cán bộ thương binh thuộc diện chính sách được cấp và khai thác từ năm 1984 để trồng rau và tăng gia sản xuất nhưng giấy tờ về việc ông Chơn được cấp đất đã bị mất (theo đơn xin xác nhận ngày 05/03/1992 của ông Võ Thành Chơn có chữ ký xác nhận của lãnh đạo Ủy ban nhân dân phường 27 và trưởng ban tổ chức quận ủy quận BT thời Điểm đó).
39/2015/HC- ST: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
- 2069
- 59
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Vào năm 2013 BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ ban hành Quyết định thu hồi đất để tổ chức bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện dự án xây dựng Trạm biến thế điện tại nút giao thông BT, quận TĐ. Ngày 15/7/2014 BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ ban hành Quyết định số 4442/QĐ- UBND về việc chi trả tiền bồi thường – hỗ trợ trong dự án Đầu tư xây dựng Trạm biến thế điện tại nút giao thông BT, quận TĐ thuộc dự án xây dựng tuyến đường sắt Bến Thành – Suối Tiên, cụ thể đã chi trả, bồi thường cho vợ chồng bà số tiền là 6.437.509.560 đ (sáu tỷ bốn trăm ba mươi bảy triệu năm trăm lẻ chín ngàn năm trăm sáu mươi) đồng. Ngày 26/6/2015 BĐ_Ủy ban nhân dân quận TĐ ban hành Quyết định số 3185/QĐ-UBND về việc điều chỉnh, bổ sung tiền bồi thường, hỗ trợ về đất chi trả cho vợ chồng bà thêm số tiền 588.325.920 đ (năm trăm tám mươi tám triệu ba trăm hai mươi lăm ngàn chín trăm hai mươi) đồng. Tổng số tiền vợ chồng bà được bồi thường là 7.025.835.480 đ (bảy tỷ không trăm hai mươi lăm triệu tám trăm ba mươi lăm ngàn bốn trăm tám mươi) đồng
01/2015/HC-ST Sơ thẩm Hành chính
- 1328
- 16
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Về nội dung, Quyết định 7581/QĐ-UBND ngày 20/12/2013 và Quyết định chi trả bổ sung số 1702/QĐ-UBND ngày 26/3/2014 căn cứ vào Quyết định số 2725/QĐ-UBND ngày 16/6/2006 và Quyết định 3453/QĐ-UBND ngày 20/8/2003 của UBND THÀNH PHỐHCM, mà quyết định 3453/QĐ-UBND qui định giao đất đề xây dựng Đại học Quốc gia chứ không phải mở rộng Quốc lộ 1. Hơn nữa, Quyết định 3453/QĐ-UBND căn cứ vào Quyết định số 660 ngày 17/6/2003 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng Đại học Quốc gia. Như vậy, căn cứ thu hồi đất là sai, và quyền lợi của bà NĐ_Hiền bị thiệt thòi.
1546/2012/HC-PT Phúc thẩm Hành chính
- 1239
- 80
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
02/2015/HCST Sơ thẩm Hành chính
- 1222
- 12
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Ngày 13/9/2007, UBND thành phố HCM ban hành Quyết định số 841/QĐ-UBND về bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước và chuyển quyền sử dụng đất ở cho ông NĐ_Châu Minh Nhật tại căn nhà số 650 PVC, Phường 8, Quận X. Ngày 10/10/2007, ông NĐ_Châu Minh Nhật và LQ_Công ty quản lý kinh doanh nhà Anh Minh ký kết Hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước và chuyển quyền sử dụng đất ở số 455BT/HĐMBNƠ.1 có diện tích đất ở 326,04m2 (diện tích sử dụng riêng 203,97m2, diện tích sử dụng chung: 122,07m2), loại nhà biệt thự hạng 2, nhà phụ cấp 3, kết cấu nhà: tường gạch, khung, sàn bê tông cốt thép, căn hộ ở tầng 1 + 2 với giá bán là 481.323.407 đồng (đã bao gồm tiền sử dụng đất). Ông NĐ_Châu Minh Nhật đã thanh toán Toàn bộ tiền mua nhà và chuyển quyền sử dụng đất và đã hồn tất thủ tục nộp lệ phí trước bạ nhà, đất cùng ngày 10/10/2007 nhưng giấy chứng nhận QSHNỞvà QSDĐỞ không giao cho ông NĐ_Châu Minh Nhật. Đến năm 2012, đường PVC được nâng cấp mở rộng, trong đó nhà ông NĐ_Châu Minh Nhật thuộc diện bị giải tỏa một phần phía trước diện tích 13,97m2.
1939/2016/HC-ST: Khiếu kiện Quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
- 1203
- 27
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Theo đơn khởi kiện ngày 05/10/2011, Đơn xin thay đổi và bổ sung nội dung yêu cầu khởi kiện ngày 10/01/2016, bản tự khai và các biên bản đối thoại, Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại, người khởi kiện ông NĐ_Ngô Hoàng Tuấn và đại diện người khởi kiện – ông Ngô Hoàng Tuấn trình bày: Nguồn gốc đất căn nhà số 121 đường số 3, cư xá Thanh Đa, Phường 27, quận BT, Thành Phố HCM là đất của cha ông Tùng - ông Ngô Viết Tư khai phá, canh tác từ năm 1975 và làm nhà để ở vào năm 1976. Năm 1989-1990 khi các con lập gia đình, cha ông Tùng đã chia cho mỗi con một phần để ở, ông Tùng được chia 50,6 m2. Cha ông Tùng cùng gia đình đã ở trên diện tích đất này và sử dụng ổn định liên tục, không có tranh chấp đến ngày duyệt phương án bồi thường đoạn 1.4 ngày 19/4/2011 là đã 36 năm. Việc sử dụng đất đã được địa chính phường, Ủy ban nhân dân và công an Phường 27 quận BT xác nhận. Trong suốt quá trình sử dụng, gia đình ông Tùng không nhận được bất kỳ một thông báo hay văn bản ngăn chặn vi phạm lấn chiếm nào của cơ quan chính quyền các cấp và không vi phạm Khoản 4 Điều 14 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP.
22/2014/GĐT-HC: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Giám đốc thẩm Hành chính
- 1185
- 15
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng
Ngày 15/5/2006, ủy ban nhân dân huyện BC ban hành Quyết định số 2583/QD-UBND bồi thường cho hộ bà NĐ_Nguyễn Thị Ren như sau: Bồi thường, hỗ trợ thiệt hại về đất đối với diện tích 2.155,8m2 bị giải tỏa gồm một phần các thửa 816, 817, 818, 819, 1585, 939, 941; với số tiền là 1.057.154.035đ (đính kèm phương án bồi thường số 433/PABT-GGT ngày 17/4/2006). Bà NĐ_Nguyễn Thị Ren đã nhận toàn bộ số tiền là 1.057.154.035đ, nhưng vẫn khiếu nại yêu cầu bồi thường gấp 5 lần đất ở và hỗ trợ 25% đối vói toàn bộ diện tích 2.200,4m2 đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư.