- Vụ việc, Vụ án: Đòi lại nhà cho ở thuê
- Loại vụ việc: Sơ thẩm
- Số hiệu: 260/2016/DS-ST
- Ngày tuyên án: 23-03-2016
- Kết quả vụ việc: Chấp nhận 1 phần
- Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15/06/2004 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Điều 62; Điều 25; Điều 79; Điều 84; Điều 131; Điều 243; Điều 245)
- Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Điều 169; Điều 256)
- Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/08/1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991 (Điều 2 Mục I; Điều 4 Mục I; Điều 11 Mục I)
25/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 983
- 17
Tại đơn khởi kiện ngày 03/4/1995 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn ông NĐ_Đào Xuân Minh trình bày: Ngôi nhà số 6 ngõ Bảo Khánh là nhà gạch 1 tầng, diện tích 175m2 trên thửa đất số 1666/1, diện tích 278m2, mang bằng khoán điền thổ số 2253 khu Nhà thờ thuộc sở hữu của các cụ tổ họ tộc họ Đào là: Đào Xuân Mậu, Đào Xuân Hương và một số người thân thuộc khác. Năm 1924 cụ Đào Bá Hoan là người được quản lý nhà thờ đã viết di chúc cho cụ Đào Xuân Nhận quản lý ngôi nhà thờ họ Đào này (tài liệu tại hồ sơ án không phản ánh mối quan hệ giữa cụ Mậu, cụ Hương, cụ Nhận trong tộc họ Đào). Năm 1940 cụ Nhận chết đột ngột, ông là con trai duy nhất của cụ Nhận và thuộc ngành trưởng nên được tiếp tục quản lý nhà này, nhưng lúc đó, ông mới được một tuổi nên mẹ ông là cụ Đỗ Thị Xuất (tức Tơ) đã quản lý thay ông.
380/2014/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở thuê Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 910
- 7
Ngày 21/4/2009 ông đã mua nhà đất của chị BĐ_Hương tại số 33, ngách 23, ngõ 118, tổ 3, phường BĐ, quận LB. Khi mua hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại phòng công chứng số 1A Nguyễn Khánh Toàn, quận Cầu Giấy, thành phố HN. Theo nội dung hợp đồng nêu trên thì chị BĐ_Hương bán cho ông nhà và đất thuộc địa chỉ nêu trên. Đất có diện tích 24,76m2, trên đất có 01 nhà bê tông 2 tầng, diện tích xây dựng là 24,76m2 với giá 500.000.000 đồng. Nhà đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà BĐ_Chu Thị Hương. Sau khi lập hợp đồng xong bà BĐ_Hương cầm hợp đồng về, ông đã đến nhà giao đủ cho bà BĐ_Hương 500.000.000 đồng tại nhà bà BĐ_Hương và lấy lại hợp đồng, bà BĐ_Hương đã viết biên bản giao nhà. Sau đó bà BĐ_Hương đã hỏi xin thuê nhà trog vòng 3 tháng để bà tìm chỗ khác và ông đã đồng ý. Khi cho bà BĐ_Hương thuê hai bên đã lập hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng thuê nhà lập cùng ngày với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
82/2015/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở thuê Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 883
- 7
Ngày 14/9/2010, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Văn Thành, bà BĐ_Nguyễn Thị Thúy Ngân lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhà, đất diện tích 91m2 tại thửa đất số 562, tờ bản đồ số 5, phường Văn Quán, quận HĐ HN cho bà. Đến ngày 01/6/2012, bà được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất trên. Ngày 14/9/2010, bà lập hợp đồng cho bà BĐ_Ngân thuê nhà đất trên để ở với giá 5.000.000 đồng/tháng, thời hạn thuê 01 năm từ ngày 14/9/2010 đến ngày 13/9/2011. Bà đã nhận tiền thuê nhà trước trong 06 tháng, hết thời hạn thuê vợ chồng ông BĐ_Thành, bà BĐ_Ngân khất lần không chịu trả lại nhà đất cho bà. Từ trước cho đến nay bà chưa cho ông BĐ_Thành bà BĐ_Ngân vay tiền nên vợ chồng ông BĐ_Thành cho rằng bà đã cho ông bà vay 4.930.000.000đ và nhận thế chấp nhà đất trên để đảm bảo cho khoản vay là không đúng. Nay bà yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Thành, bà BĐ_Ngân trả lại nhà, đất trên cho bà.
10/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 812
- 11
Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay.
381/2014/DS-GĐT: Đòi lại nhà cho ở thuê Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 791
- 6
Căn nhà số 51/20 AC, phường 19 (nay là 30/39/2 đường 100 BT, phường 14, quận T, thành phố HCM) do bà Trương Thị Sơ mua từ năm 1950. Đến năm 1956 bà cho ông Trần Nhĩ và bà Hà Tu thuê, không lập hợp đồng. Sau khi ông Nhĩ, bà Tu chết, con bà là Hà Lê tiếp tục ở và trả tiền thuê nhà mỗi tháng 1.200 đồng, đến năm 1975 không trả tiền thuê nhà nữa. Năm 1983, bà Sơ ủy quyền cho bà NĐ_Nguyễn Thị Minh khởi kiện ông Hà Lê đòi lại nhà. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 18/2008/DSST ngày 14/9/1983 của Tòa án nhân dân quận T đã xử buộc ông Hà Lê phải trả lại nhà cho bà Trương Thị Sơ trong hạn 12 tháng.
47/2008/DS-TT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 737
- 19
Năm 1937, vợ chồng cụ Nguyễn Huy Bích và Nguyễn Cống Truật nhận bà làm con nuôi do các cụ không có con. Tuy bà không có các giấy tờ về thủ tục nhận con nuôi của các cụ, nhưng thực tế bà đã được các cụ nuôi dưỡng ngay từ lúc bà còn rất nhỏ tại nhà của các cụ tại số 9 VM, phường VM, thành phố HN. Năm 1952, cụ Bích chết và năm 1976, cụ Truật chết đều không để lại di chúc; bà là người duy nhất được thừa kế nhà số 9 VM của cụ Bích và cụ Truật.
47/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 684
- 18