- Vụ việc, Vụ án: Tranh chấp quyền sở hữu nhà
- Loại vụ việc: Sơ thẩm
- Số hiệu: 467/2016/DSST
- Ngày tuyên án: 18-05-2016
- Kết quả vụ việc: Chấp nhận toàn bộ
- Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15/06/2004 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Khoản 3 Điều 2; điểm a Khoản 1, Khoản 3 Điều 33; Điều 131; Điều 132 Khoản 2; Điều 199; Khoản 1, Khoản 3 Điều 202)
- Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Điều 164; Điều 165; Điều 167; Điều 169; Khoản 2 Điều 305)
- Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc Hội (Điều 2; Điều 6; Điều 7; Điều 9; Điều 30)
424/2015/DS-ST: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4398
- 126
Nguồn gốc nhà đất tại số 534C NVT (TMG), Quận Y, Sài Gòn nay là đường LVS, Phường 14, Quận Y, Thành phố HCM là của cha mẹ bà NĐ_Lưu Kim Ý là ông Lưu Dụ và mẹ là bà LQ_Phạm Thị Quyên. Ngày 01/10/1975 cha mẹ bà NĐ_Ý đã làm giấy cho đứt căn nhà trên cho bà, giấy cho nhà đã được Ủy ban nhân dân cách mạng chứng nhận ngày 07/10/1975 ngày 20/10/1975 đã đóng trước bạ tại phòng thuế trước bạ thành phố. Năm 1980 do cha mẹ bà NĐ_Ý bị bệnh nặng bà được phép đưa cha mẹ sang Pháp chữa bệnh. Nên bà đã nhờ bà LQ_Nguyễn Thị Minh người giúp việc giữ nhà và giao toàn bộ các giấy tờ nhà cho bà LQ_Minh. Thời gian đầu bà vẫn thường xuyên liên lạc với bà LQ_Minh nhưng về sau không liên lạc được nữa.
422/2016/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3123
- 145
Căn nhà tại địa chỉ 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Thành phố HCM (sau đây gọi tắt là nhà 2/89) là thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Văn Chuẩn và bà NĐ_Nguyễn Thị Thảo. Vào năm 1992 ông NĐ_Chuẩn có mua lô đất diện tích 160m2 tại ấp 3, xã TL. Sau đó vào năm 1995 ông NĐ_Chuẩn xây dựng một căn nhà cấp 4 khoảng 50m2, quán nhỏ phía trước nhà và mua trang thiết bị sinh hoạt trong gia đình, số tiền tổng cộng khoảng 40.000.000 đồng. Do gia đình ông BĐ_Quốc từ quê vào không có chỗ ở nên ông NĐ_Chuẩn cho gia đình ông BĐ_Quốc ở nhờ tại nhà 2/89. Sau đó vợ chồng ông BĐ_Quốc nói với ông NĐ_Chuẩn cho xây căn nhà có gác ở phần phía sau để cho thuê có thêm thu nhập. Ông NĐ_Chuẩn đồng ý và để cho ông BĐ_Quốc tự bỏ tiền ra xây dựng phần phía sau. Vào năm 2003 ông NĐ_Chuẩn đã hợp thức hóa căn nhà trên, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, hồ sơ gốc số 12334 ngày 26/11/2003 có địa chỉ tại 2/89 HHG, Khu phố 1, phường TL, Quận X, Tp. HCM. Do có nhu cầu nhập hộ khẩu lo cho con đi học của ông BĐ_Quốc, nên vợ chồng ông BĐ_Quốc nhờ vợ chồng ông NĐ_Chuẩn làm thủ tục tặng cho nhà 2/89 để vợ chồng ông BĐ_Quốc được đứng tên quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở và làm thủ tục nhập hộ khẩu, sau đó sẽ sang tên nhà đất lại cho vợ chồng ông. Do anh em ruột trong nhà nên ông NĐ_Chuẩn sẵn sàng giúp đỡ. Ngày 16/4/2004 vợ chồng ông NĐ_Chuẩn ký hợp đồng tặng cho nhà 2/89 cho vợ chồng ông BĐ_Quốc, thực chất việc tặng cho này chỉ là giả tạo.
39/2008/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3108
- 106
Theo đơn khởi kiện ngày 04-10-2001 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Jacques Võ Khắc Mễ trình bày: Ông là Việt kiều ở Pháp. Ông muốn mua nhà ở thành phố HCM để sau khi về hưu thì cả gia đình ông hồi hương về Việt Nam sinh sống, đồng thời để cha (cụ Võ Văn Hợi) và mẹ kế (cụ Dương Thị Ngọc Ánh) và các em cùng cha khác mẹ (gồm bà BĐ_Võ Thị Đoan, bà Võ Thị Đông Thanh, bà LQ_Võ Thị Đông Thu) chuyển từ tỉnh Trà Vinh lên thành phố HCM sinh sống. Năm 1989 ông đã nhiều lần gửi thuốc tây từ Pháp về Việt Nam (có lần ông trực tiếp mang thuốc về) để bà BĐ_Đoan bán và ông gửi thêm tiền về để bà BĐ_Đoan mua căn nhà số 23B cư xá Đô Thành, phường X, quận Y, thành phố HCM của gia đình bà Nguyễn Thị Thân vào ngày 19-9-1989 và xây lại nhà này (có lúc ông LQ_Mạn khai là gia đình yêu cầu ông tài trợ tiền để mua nhà và xây mới căn nhà).
04/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2480
- 85
126/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1954
- 83
Tại đơn khởi kiện ngày 06-3-2006 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Sông trình bày: Bố ông là cụ Nguyễn Đình Chiện (chết năm 1998), mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Mở (chết năm 2005). Bố mẹ ông có 04 người con gồm ông, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hương, bà Nguyễn Thị Lan. Trước đây gia đình ông ở số 2 Hàng Bún, còn bác ông là Nguyễn Đình Nhuần ở số 10 Hàng Bún. Khi đi sơ tán về thì nhà của bác bị Nhà nước lấy giao cho người khác sử dụng, nên bố ông đã nhường nhà số 2 Hàng Bún cho cụ Nhuần ở, gia đình ông đi thuê nhà, ông Đỗ Trọng Thành là người ký hợp đồng cho bố ông thuê tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc ngày 01-02-1972. Nhà 19 Thuốc Bắc thuộc quyền sở hữu của 05 anh chị em ông Thành gồm ông Đỗ Trọng Thành, bà Đỗ Thị Ngà, bà Đỗ Song Toàn, bà Đỗ Thị Nguyệt, ông Đỗ Trọng Cao. Do ông Cao cần tiền chữa bệnh nên đã bán 01 buồng 38m2 tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông, hợp đồng ông Cao ký bán không ghi ngày tháng năm, giá bán là 6550 đồng, ông Cao đã nhận đủ tiền
136/2012/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1897
- 68
92/2015/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1768
- 53
Nguồn gốc căn nhà số 26/3B ấp CC, xã AK, huyện TĐ, Thành phố HCM, nay là 26/3B LĐC, phường AK, Quận X, Thành phố HCM, có diện tích là 87,5m2 là do ông BĐ_Phan Tấn Liêu và bà BĐ_Nguyễn Thị Nghiệp tạo lập. Đến năm 1990, vợ chồng ông BĐ_Liêu và bà BĐ_Nghiệp định cư tại Hoa Kỳ. Trước khi xuất cảnh, ông BĐ_Liêu và bà BĐ_Nghiệp bán căn nhà nêu trên cho bà vào tháng 7/1990 với giá là 20 lượng vàng SJC. Do không đủ tiền nên bà đã vay mượn của các anh chị em là ông LQ_Phan Tấn Thái, ông LQ_Phan Tấn Sông và bà LQ_Phan Thị Kim Kiệm mỗi người là 5 lượng vàng SJC, vì là anh em ruột nên tin tưởng không làm giấy vay mượn. Ông BĐ_Liêu và bà BĐ_Nghiệp đã làm giấy cam kết được chính quyền địa phương xác nhận ngày 26/8/1990 với nội dung không còn sở hữu bất động sản nào tại Việt Nam và khẳng định căn nhà nêu trên là của bà. Do thời điểm đó không làm giấy chủ quyền được nên giữa bà, ông BĐ_Liêu và bà BĐ_Nghiệp có làm tờ ủy quyền và giao toàn bộ bản chính giấy tờ nhà cho bà. Khi giao dịch, các bên đều biết nhà và đất thuộc diện quy hoạch lộ giới nên đồng ý chấp hành theo quyết định của nhà nước.
158/2012/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1754
- 34
126/2015/DS-ST: Tranh chấp về quyền sở hữu nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1546
- 32
Theo đơn khởi kiện ngày 24/4/2012 và các biên bản tự khai, hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn là những người kế thừa quyền nghĩa vụ của ông NĐ_Diêu Minh Mạnh do bà Tạ Thị Trinh đại diện trình bày: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án công nhận quyền sở hữu 03 căn nhà cùng một số 148 TĐX, phường NCT, Quận Y, Thành phố HCM thuộc quyền sở hữu của cha mẹ nguyên đơn là ông Diêu Văn Xái, bà Nguyễn Thị Liễu và yêu cầu bị đơn là BĐ_Nguyễn Thị Kim Ánh, bà BĐ_Nguyễn Thị Bạch Trà, ông BĐ_Phan Văn Lộc phải trả lại căn nhà trên cho các con ông Xái do bà Tạ Thị Trinh đại diện nhận với các căn cứ sau: Căn nhà 148 TĐX (trước đây là đường PD), phường NCT, Quận Y có nguồn gốc là do ông Diêu Văn Xái xây dựng trên trên phần đất mướn của ông Huỳnh Văn Đây, ông Xái cất nhà để cho mẹ vợ là bà Lý Thị Tám ở để thờ cúng, ông Xái cùng vợ con ở nơi khác, việc ông Xái cất nhà thể hiện trên giấy phép xây dựng số 175 ngày 22/2/1942 do Đô trưởng Sài Gòn ký. Bà Lý Thị Tám có 02 người con gồm
250/2015/ST-DS: Tranh chấp quyền sở hữu nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1284
- 45
Năm 1995, ông NĐ_Quách Cẩm Tiên là người đang định cư tại Mỹ có nhờ ông BĐ_Quách Niệm Linh là cháu ruột đứng tên mua dùm căn nhà diện tích 11m x 9,5m tọa lạc tại số 1033B Hương lộ 14, phường 9, quận Tân Bình (cũ) nay là số 14 HTL, phường HT, quận TP, thành phố HCM. Đồng thời ông NĐ_Tiên đã chuyển số tiền 25.000 USD (hai mươi lăm ngàn đô la Mỹ) từ Mỹ về Việt Nam để ông BĐ_Linh thực hiện việc mua bán căn nhà nêu trên theo thủ tục quy định vì pháp luật chưa quy định người định cư nước ngoài được sở hữu nhà. Sau khi mua bán xong căn nhà nêu trên, ông NĐ_Tiên đã sửa chữa lại căn nhà cho ông BĐ_Linh ở để trông coi căn nhà.