- Vụ việc, Vụ án: Đòi lại tài sản
- Loại vụ việc: Sơ thẩm
- Số hiệu: 354 /2014/DS-ST
- Ngày tuyên án: 30-09-2014
- Kết quả vụ việc: Không chấp nhận toàn bộ
66/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4878
- 128
221/2015/DS-ST: Đòi lại tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4363
- 119
Ông NĐ_Trần Ngọc Tiên có cho BĐ_Công ty Cổ phần Tập đoàn Đầu tư Xuất Nhập khẩu Tâm Phúc (viết tắt là BĐ_Công ty Tâm Phúc) vay số tiền 6.370.700.000 đồng (sáu tỷ ba trăm bảy mươi nghìn bảy trăm đồng) theo Hợp đồng vay vốn số 01/2010/TNT-HĐVV ngày 15/10/2010, mục đích vay là phục vụ sản xuất kinh doanh, thời hạn vay là 18 tháng, lãi suất thỏa thuận là 0,5%/tháng. Để đảm bảo cho Khoản vay nêu trên hai bên thỏa thuận tại Khoản 3.5 Điều 3 hợp đồng: “phía BĐ_Công ty Tâm Phúc cam kết dùng tài sản hình thành trong tương lai là 03 lô đất nằm trong khu dự án Ocean Hill Village tại Tp NT, tỉnh KH do BĐ_Công ty Tâm Phúc làm chủ đầu tư thế chấp cho ông NĐ_Trần Ngọc Tiên, hai bên thỏa thuận ông NĐ_Trần Ngọc Tiên sẽ được toàn quyền sử dụng, sở hữu 03 lô đất nêu trên nếu hết thời hạn vay mà BĐ_Công ty Tâm Phúc không thực hiện đầy đủ việc thanh toán đã quy định trong hợp đồng vay”. Ngày 18/10/2010 ông NĐ_Tiên đã chuyển cho BĐ_Công ty Tâm Phúc số tiền 6.370.700.000 đồng theo phiếu thu số 0055/09/PT. Như vậy theo thỏa thuận tại hợp đồng vay vốn, đến hết ngày 18/4/2012 BĐ_Công ty Tâm Phúc có trách nhiệm hoàn trả nợ vay cho ông NĐ_Tiên nhưng cho đến nay BĐ_Công ty Tâm Phúc vẫn không thực hiện việc trả nợ mặc dù ông NĐ_Tiên đã nhiều lần yêu cầu.
17/2015/DS -GĐT: Đòi lại tài sản Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4182
- 33
Bà NĐ_Tiên sống ở Nhật Bản từ năm 1977 nhưng vẫn thường xuyên về thăm gia đình. Năm 1992, bà NĐ_Tiên có nguyện vọng mua nhà tại Việt Nam, tuy nhiên do pháp luật Việt Nam không cho phép nên bà NĐ_Tiên đã nhờ ông BĐ_Nguyễn Văn Hiền. (là chú ruột của bà, sống tại YB) mua giúp. Cuối năm 1992, ông BĐ_Hiền đã tìm và mua được nhà đất tại số 16, B20 phường NT, quận CG, thành phố HN (sau đây gọi tắt là nhà 16-B20) là nhà 02 tầng trên diện tích 68,5m2 đất của Công ty xây dựng dân dụng HN với giá 320 chỉ vàng. Do nhà mua không có điện nước, nên phải ký thêm hợp đồng dịch vụ để thuê làm điện nước hết 36 chỉ vàng, tổng cộng mua nhà hết 356 chỉ vàng, nhưng ông BĐ_Hiền nói là mua nhà hết 360 chỉ vàng và bà NĐ_Tiên đã đưa đủ vàng cho ông BĐ_Hiền. Tiền mua nhà là của bà NĐ_Tiên, khi bà NĐ_Tiên giao tiền ông BĐ_Hiền không viết giấy biên nhận.
11/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3923
- 133
Từ năm 1997 đến năm 2000, bà cho ông BĐ_Thân, bà BĐ_Bảo mượn 40 lượng vàng ( vay 3 lần), nhưng chỉ tính lãi 20 lượng vàng; còn 20 lượng thì bà BĐ_Bảo mua giùm bà 2 nền nhà ở chợ Cái Tắc vào năm 2001, nên vợ chồng bà BĐ_Bảo chỉ còn nợ bà 20 lượng vàng. Năm 2001, bà đồng ý cho bà BĐ_Bảo cất 1 căn nhà tạm trên phần đất thổ cư để làm quán bán giải khát, nhưng bà BĐ_Bảo lại cất nhà cấp 4. Bà và bà BĐ_Bảo thỏa thuận rằng : bà lấy căn nhà cấp 4 nói trên; còn bà BĐ_Bảo lấy một trong hai nền nhà tại chợ Cái Tắc; bà BĐ_Bảo sang tên 10.206m2 đất nói trên cho ông Nguyễn Tấn Thành (em chồng bà ). Sau đó, vợ chồng bà BĐ_Bảo bán một nền nhà của bà ( còn lại) ở chợ Cái Tắc và đã đưa tiền cho bà. Còn thỏa thuận nói trên thì vợ chồng bà BĐ_Bảo không thực hiện.
125/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3582
- 61
62/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3313
- 163
Tại Biên bản giao dịch mua bán cổ phiếu ngày 30/7/2004 có nội dung ông NĐ_Tiền còn nợ BĐ_Công ty phần vốn góp là 149 triệu đồng. BĐ_Công ty có đơn phản tố yêu cầu ông NĐ_Tiền phải thanh toán phần yốn góp chưa nộp là 149 triệu đồng. Do đó, khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cần làm rõ nếu giữa ông NĐ_Tiền và BĐ_Công ty thỏa thuận đồng ý cho ông NĐ_Tiền rút vốn (trả bằng tiền hoặc bằng nền đất), các bên không còn tiếp tục hợp tác kinh doanh và không còn tranh chấp gì khác thì đó là tranh chấp về dân sự; còn nếu trong trường hợp việc chuyển nhượng vốn giữa ông NĐ_Tiền với BĐ_Công ty chưa hoàn thành, các bên co tranh chấp về giá trị chuyển nhượng, tranh chấp về phần vốn góp thì phải xác định đây là tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại.
138/2012/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2974
- 42
42/2016/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2816
- 116
Tháng 01 năm 2009 bà NĐ_Ngô cho ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Bích vay số tiền 1.900.000.000 đồng, thoả thuận thời hạn vay 04 tháng, lãi suất 20.000.000 đồng/tháng. Hết thời hạn vay, ông BĐ_Ninh bà BĐ_Bích không có khả năng trả nợ nên ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Bích đồng ý bán căn nhà tại địa chỉ 81 DC, Khu phố 2, phường BT, quận TĐ, Thành phố HCM cho bà NĐ_Ngô với giá 2.000.000.000 đồng để cấn trừ khoản tiền nợ gốc 1.900.000.000 đồng và 05 tháng tiền lãi 100.000.000 đồng. Ngày 27/5/2009 hai bên đã ký kết hợp đồng mua bán nhà tại Phòng công chứng PAT, Thành phố HCM. Sau khi ký hợp đồng, ông BĐ_Ninh bà BĐ_Bích không đóng thuế nên bà NĐ_Ngô không thực hiện được việc đăng bộ sang tên nhà, đất. Bà NĐ_Ngô đã liên hệ ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Bích nhưng ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Bích yêu cầu bà NĐ_Ngô cho ông bà vay một khoản tiền để ông bà giải quyết công nợ thì ông bà sẽ hỗ trợ bà NĐ_Ngô đăng bộ, sang tên căn nhà.
27/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2524
- 115
Bà Thảnh là Việt kiều ở Hà Lan về thăm thân nhân tại Việt Nam và có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên ngày 10-8-1993 bà có nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hêng Tính, bà Lý Thị Sà Quênh diện tích 7.595,7m2 đất ruộng tại phường 7 thị xã Sóc Trăng với giá 21,99 chỉ vàng. Bà là người trực tiếp giao dịch, thỏa thuận việc chuyển nhượng và trả tiền, vàng cho vợ chồng ông Hênh Tính. Mục đích của bà Thảnh là chuyển nhượng đất để giao cho em ruột của bà là ông Nguyễn Văn Tám và bà Nguyễn Thị Chính Em canh tác nuôi cha mẹ của bà và ông Tám. Do bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên bà để cho ông Tám đứng tên trong giấy tờ sang nhượng. Đồng thời, bà Thảnh xuất trình “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993 có xác nhận của UBND xã An Hiệp. Sau khi nhận chuyển nhượng bà để cho vợ chồng ông Tám canh tác, nhưng năm 2004, không được bà đồng ý, ông Tám đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích 7.595,7m2 đất trên cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá trị quyền sử dụng đất là 1.260.000.000 đồng. Vì vậy, bà yêu cầu ông Tám trả lại số tiền thu được từ việc chuyển nhượng đất của bà.
345/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2464
- 49
Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 15/4/2014 và lời khai của nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Thanh Bánh: Ngày 03/11/2011 ông NĐ_Nguyễn Thanh Bánh và bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc Uyển, ông BĐ_Lê Văn Phước có ký Hợp đồng đặt cọc mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với nhà và đất toạ lạc tại địa chỉ 90/4B đường 21, khu phố 1, phường HBP, quận TĐ, Thành phố HCM. Nhà và đất đã được cấp giấy số BA 981843 vào sổ số CH 00054 do UBND quận TĐ cấp ngày 25/01/2010. Giá trị hợp đồng là 3.000.000.000 (ba tỷ) đồng, ngay khi ký hợp đồng ông NĐ_Nguyễn Thanh Bánh đã đặt cọc, cho ông BĐ_Phước, bà BĐ_Uyển số tiền là 2.850.000.000 (hai tỷ tám trăm năm mươi triệu) đồng. Hai bên thoả thuận 45 ngày kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc thì bà BĐ_Uyển, ông BĐ_Phước có trách nhiệm hoàn tất thủ tục công chứng hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà BĐ_Uyển, ông BĐ_Phước có trách nhiệm giao nhà, đất và các tiện nghi, các công tình phụ sẵn có cho ông NĐ_Thanh Bánh. Ông NĐ_Thanh Bánh có trách nhiệm trả hết số tiền còn lại là 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu) đồng sau khi nhận xong nhà đất.