- Vụ việc, Vụ án: Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà
- Loại vụ việc: Phúc thẩm
- Số hiệu: 773/2015/DS-PT
- Ngày tuyên án: 30-06-2015
- Kết quả vụ việc: Sửa bản án sơ thẩm
- Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15/06/2004 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Khoản 2 Điều 275 Điều 276)
- Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Điều 129, Điều 137, khoản 2 Điều 305)
- Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc Hội (Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 9, Điều 30)
18/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3862
- 158
Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà
Do quen biết nên khoảng năm 2007 khi biết vợ chồng bà BĐ_Xu ông BĐ_Khoa có ý định bán hai căn nhà, nhưng cả hai căn nhà đều đang bị thế chấp tại Ngân hàng, nghĩ là mua được giá rẻ nên ông NĐ_Tính hỏi mua và được vợ chồng bà BĐ_Xu ông BĐ_Khoa hứa bán sau khi giải chấp. Vì vậy, khi bà BĐ_Xu cần tiền nói với ông đưa tiền trước để đặt cọc, nhưng do ông NĐ_Tính không đủ tiền đưa một lần, nên lúc bà BĐ_Xu cần tiền ông NĐ_Tính gọi điện về nhà cho em họ là bà LQ_Trần Thị Thu Thủy lấy tiền giao cho bà BĐ_Xu. Khi ở nhà không có tiền thì ông NĐ_Tính hỏi mượn của bạn bè là bà LQ_Nguyễn Thị Lan Cương và bà LQ_Nguyễn Thị Hà để giao cho bà BĐ_Xu. Tông cộng đã giao cho bà BĐ_Xu 1.800.000.000 đồng. Khi giao tiền cho bà BĐ_Xu, bà BĐ_Xu đều viết giấy biên nhận, nhưng lại ghi nhận của những người trực tiếp giao tiền là bà LQ_Thủy, bà LQ_Lan Cương, vì vậy có giấy nợ phần ghi trả tiền cho ai thì chừa trống chưa ghi tên người nhận.
36/2010/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2817
- 110
Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà
Ngày 20/9/2007 qua sự giới thiệu của ông Thang Lưu Hồng và bà Nguyễn Thị Sâm thì ông có đến nhà 222 HTP, phường TTT, Quận Z, thành phố HCM để xem nhà. Được biết bà BĐ_Hoa bán căn nhà 222 HTP cấu trúc vách tường, mái tôn, phía sau có gác gỗ, diện tích 6,5m x 38m = 247m2 với giá 7.100.000.000đ (bảy tỷ một trăm triệu đồng) tương đương 25.000.000đ/m2, theo bà BĐ_Hoa trình bày nhà có giấy tờ đầy đủ. Ngày 22/9/2007 ông NĐ_Ngà đặt cọc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), ngày 23/9/2007 đặt cọc tiếp 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), tổng số tiền đặt cọc đã đưa là 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng) hai bên có ký “Giấy đặt cọc bán nhà” vào ngày 22/9/2007. Sau khi đặt cọc ông có yêu cầu bà BĐ_Hoa đưa giấy tờ nhà cho ông xem và bà BĐ_Hoa có photo cho ông 01 bản giấy chủ quyền nhà, do có việc bận nên ông về ngay chưa xem kỹ nội dung giấy chủ quyền.
50/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2005
- 35
Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà
Nguồn gốc căn nhà số 55 TH phường X, quận Y của ông Hàng Văn Thành, ông Thành cho con là bà Hàng Thị Xê xử dụng. Ngày 09/02/1987 bà Xê ủy quyền cho ông BĐ_Phan Vĩnh Thùy sử dụng 2,m85 x 10,13m. Ngày 03/12/2001 ông BĐ_Thùy bà BĐ_Vy bán căn nhà nêu trên cho bà LQ_Huỳnh Thị Minh Tạ giá 23 lượng vàng SJC và bà LQ_Tạ đã để con bà NĐ_Phạm Thái Tiến đứng tên trên giấy mua bán với ông BĐ_Thùy bà BĐ_Vy. Ông NĐ_Tiến đã đặt cọc 06 lượng vàng SJC và chịu trách nhiệm làm thủ tục hợp thức hóa mua bán, bên nào vi phạm phải chịu phạt gấp 4 lần tiền cọc.
1354/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1552
- 41
Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà
Ngày 19-5-2007 ông NĐ_Lương Văn Trê và ông BĐ_Phạm Kinh Long có ký hợp đồng đặt cọc trị giá 100.000.000 đồng (một trăm triệu) để mua căn nhà 90/618B LTK phường T, quận GV - Ngày 21-5-2007 ông NĐ_Lương Văn Trê cho ông BĐ_Phạm Kinh Long vay số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng), thời hạn vay là 1 tháng, không ghi lãi suất. Ông BĐ_Long có thế chấp giấy tờ căn nhà 90/618B LTK, phường T, quận GV do bà LQ_Nguyễn Thị Hương là chủ sở hữu. Do đã hết thời hạn ký hợp đồng mua bán nhà và thời hạn trả nợ, ông NĐ_Trê đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông BĐ_Long vẫn không thực hiện nghĩa vụ. Ngày 6-11-2007 bà LQ_Nguyễn Thị Hương là mẹ của ông BĐ_Long có làm giấy hẹn nợ sẽ trả hết số tiền 150.000.000 dồng (một trăm năm mươi triệu đồng) trong thời hạn là 3 tháng nhưng sau đó vẫn không thực hiện. Nay ông NĐ_Trê yêu cầu ông BĐ_Long trả lại số tiền 150.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi suất.