- Vụ việc, Vụ án: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Loại vụ việc: Giám đốc thẩm
- Số hiệu: 27/2015/GĐT-DS
- Ngày tuyên án: 16-10-2015
- Kết quả vụ việc: Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để Xét Xử sơ thẩm lại hoặc Xét Xử phúc thẩm lại
480/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2159
- 137
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Tổng diện tích đất vợ chồng bà nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Vân là 10739m2. Lần chuyển nhượng thứ nhất 4.600m2, đất đã có sổ đỏ, phần đất này không tranh chấp. Lần nhận chuyển nhượng thứ 2 vào năm 2003, diện tích 6.139m2 với giá 60.000.000 đồng. Thời điểm sang nhượng đất bà Vân chưa có giấy chứng nhận QSD đất hai bên chỉ lập giấy tay nhưng đã giao tiền đầy đủ. Năm 2010, sau khi bà Vân được cấp giấy chứng nhận QSD đất, bà và bà Vân đã làm thủ tục sang tên giấy chứng nhận QSD đất, bà được cấp 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày 20/9/2010 (giấy thứ nhất thửa số 126, tờ bản đồ số 101, diện tích 3862m2, giấy thứ hai thửa số 370, tờ bản đồ số 10, diện tích 2277m2). Nhưng từ khi nhận chuyển nhượng đất của bà Vân đến nay, vợ chồng bà chưa được sử dụng đất do bị vợ chồng chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân (con bà Vân) vẫn sử dụng. Bà đã yêu cầu chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân di dời nhà về phần đất 400m2 bà Vân chia cho để giao trả lại đất cho bà nhưng chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân không đồng ý. Bà yêu cầu chị BĐ_Liên, anh LQ_Lân trả lại cho bà 6.139m2 tại tổ 11, ấp Hội Tân, xã TH, theo giấy chứng nhận QSD đất bà được cấp năm 2010.
767/2011/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1879
- 35
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/3/2009, nguyên đơn là anh NĐ_Dương Văn Điện trình bày: Năm 1994 cụ Dương Văn Trượng (là ông nội của anh) cho anh 3.530m2 đất thuộc thửa 543. Ngày 01/3/1997, cụ Trượng lập di chúc cho anh 3.000m2 đất (trong tổng diện tích đất nêu trên). Nãm 1996, anh cho vợ chồhg ông BĐ_Dương Văn Sang (là con của cụ Trượng), bà Đỗ Thị Hơn 5 30m2 đất để canh tác. Nhưng hiện tại vợ chồng ông BĐ_Sang đang canh tác 1.500m2 đất và cho rằng cụ Trượng viết lại di chúc năm 1999 cho vợ chồng ông BĐ_Sang diện tích đất này nhưng anh không biết có di chúc năm 1999. Yêu cầu vợ chồng ông Sau phải trả cho anh 1.500m2 đất thuộc một phần thửa 543.
244/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1755
- 66
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ông NĐ_Sang yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông BĐ_Ba với ông LQ_Chiết phần đất 1.176,8m2, hủy hợp đồng tặng cho giữa ông BĐ_Ba với ông LQ_Sinh phần đất 968,6m2 để nhập vào phần đất còn lại của ông BĐ_Ba để chia thừa kế. Như vậy ông NĐ_Sang yêu cầu chia thừa kế phần đất diện tích 3.369,6m2. Ông NĐ_Sang, bà LQ_Bình, bà LQ_Na, ông LQ_Tấn yêu cầu chia chung 1 thửa lớn rồi tự chia suất riêng. Ông NĐ_Sang, bà LQ_Bình, bà LQ_Na, ông LQ_Tấn tự nguyện bồi thường tiền cát ông BĐ_Ba đã san lấp là 20.000.000 đồng. Đối với số cây trên đất thì ông BĐ_Ba, ông LQ_Chiết, ông LQ_Sinh tự di dời.
160/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1363
- 44
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Năm 1973, cụ Thanh mua một mẫu đất tại khi Rạch Ruột Ngựa (nay thuộc phường 16 quận T) và sinh sống tại đó. Thời kỳ thành lập hợp tác xã, gia đình đã giao hết đất vào hợp tác xã. Cụ Năm đứng tên chủ hộ gia đình, là xã viên hợp tác xã phường 21 quận T (nay là phường 16 quận T - Hợp tác xã nông nghiệp Phủ Định) và được nhận đất do hợp tác xã giao có diện tích 6907m2 đất nông nghiệp. Sau khi hợp tác xã không còn, cụ Năm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 6907m2 nông nghiệp. Cụ Năm đã bán đi một phần đất nên chỉ còn lại khoảng 2300m2 thuộc thửa đất 7 và số 8 tờ bản đồ số 02. Diện tích đất nêu trên hiện nay do người con thứ năm là ông BĐ_Nguyễn Văn Hà quản lý, sử dụng. Ông BĐ_Hà đi nghĩa vụ quân sự từ năm 1981 đến 1984, khi xuất ngũ thì làm công nhân Xí nghiệp nước mắm Việt Hương Hải. Khi còn sống, cụ Năm đã khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Hà trả lại cho cụ quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, do cụ Năm chết trong quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án. Quá trình sử dụng đất, ông BĐ_Hà đã xây dựng nhà trọ trên đất để kinh doanh, hưởng hoa lợi từ việc kinh doanh này.
07/2007/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1355
- 22
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Theo lời khai của các đương sự tại cấp sơ thẩm thì lúc sinh thời, Ông Du và bà BĐ_Sinh có các tài sản chung gồm: Căn nhà cấp 4A5 diện tích 78,96m2, nhà tạm 72,96m2 nằm trên thửa đất số 60, tờ bản đồ số 40, diện tích 20.939m2 trỏng đó co 300m2 đất thổ cư, Thửa đất số 101, tờ bản đồ số 40, diện tích 9.051m2 cùng tòạ lạc tại Ấp Trảng Lớn, HD, TT, tỉnh BR-VT. Đất đã được cấp giấy chứng nhận QSD đất năm 1995 đứng tên ông Trần Văn Du. Năm 2001 bà BĐ_Sinh làm thủ tục sang tên toàn bộ diện tích đất trên từ ông Du sang tên bà BĐ_Sinh. Năm 2004 đã làm thủ tục chuyển QSD thửa số 101 sang tên ông LQ_Trần Hữu Đinh.
32/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1307
- 27
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ngày 20/11/2003, cụ Tiềm lập di chúc (có công chứng chứng thực) cho ông BĐ_Tín lô đất thứ nhất. Ngày 03/12/2003, cụ Tiềm chết. Bà NĐ_Trinh và bà NĐ_Duyên khởi kiện cho rằng trong lô đất thứ nhất thì tài sản chung của cụ Phúc, cụ Tiềm chỉ là 400m2, diện tích đất còn lại là do các ông, bà cùng cụ Tiềm khai phá, lấn rộng ra xung quanh, vì vậy, việc cụ Tiềm lập di chúc cho ông BĐ_Tín lô đất này là không đúng; hơn nữa khi lập di chúc cụ Tiềm bị điếc và lú lẫn, nên đi chúc này không hợp pháp. Đối với lô đất thứ 2, ông BĐ_Tín tự ý kê khai đứng tên là không đúng. Do đó, đề nghị Tòa án chia thừa kế cả hai lô đất trên theo quy định của pháp luật; đối với diện tích đất cụ Tiềm, ông BĐ_Tín đã chuyển nhượng cho ông LQ_Bùi Văn Khang thì yêu cầu ông LQ_Bùi Văn Khang trả lại, ông BĐ_Tín có trách nhiệm trả lại tiền cho ông LQ_Khang.
49/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1285
- 34
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cụ Huỳnh Tấn Minh (chết năm 1993) và cụ Trần Thị Ba (chết năm 2005) khi còn sống hai cụ tạo lập được 1000m2 đất thuộc thửa 1060 và 6.400m2 đất thuộc thửa 1061, tờ bản đồ số 2 ấp Tân Bình Hạ, xã TH, huyện TB, tỉnh ĐT. Ngày 15/10/1997, ủy ban nhân dân huyện TB cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Huỳnh Văn Sinh (là con của cụ Minh, cụ Ba) đứng tên (trong đó có cả diện tích đất mà cụ Minh, cụ Ba đã cho vợ chồng ông Lộc) nên yêu cầu ông BĐ_Sinh, bà BĐ_Phương, bà LQ_Linh phải giao trả 1.413,75m2 đất có chiều ngang 15m, dài từ hố Bến Siêu đến đất ruộng ông Mam cho nguyên đơn sử dụng
159/2014/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1231
- 23
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 07/06/2007 nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Thủy trình bày: Năm 1984, mẹ bà là cụ Huỳnh Thị Nữ (chết 2001) được Nông trường Nhị Xuân cấp cho 2000m2 đất, trên đất có sẵn một căn nhà do Thanh niên xung phong cất. Cụ Nữ đã chia cho con trai là ông LQ_Nguyễn Mạnh Hữu 1000m2 đất, còn lại 1000m2 cụ Nữ cùng các con gái là bà, bà BĐ_Nguyễn Thị Bình, bà NĐ_Nguyễn Thị Thanh An sử dụng. Nay bà có yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của mẹ bà là cụ Huỳnh Thị Nữ (chết 2001) để lại là diện tích 1000m2 đất tại số 43B ấp 5, xã XTS, huyện HM, thành phố HCM hiện do chị gái bà là bà BĐ_Nguyễn Thị Bình quản lý, sử dụng.
424/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1187
- 28
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Năm 1997, bà BĐ_Nữ đã đồng ý họp thân tộc để chia đất và thống nhất gia đình bà BĐ_Nữ sử dụng 14 diện tích đất, còn lại 14. giao cho thân tộc. Tuy nhiên, sau đó chị BĐ_Ánh không đồng ý chia đất vì chị BĐ_Ánh đang sản xuất trên phần đất có diện tích 15.344m2. Cụ Đinh và cụ Phước có 9 người con gồm các ông bà Nguyễn Thị Lộc, BĐ_Nguyễn Thị Nữ, Nguyễn Văn Ngưng, Nguyễn Thị Điền, Lê Văn Thực, Lê Văn Mài, Nguyễn Văn Mãi, Nguyễn Văn Lăng, Nguyễn Thị Nhẹ, nhưng bà Lộc, ông Ngưng, bà Điền đã chết không có chồng, vợ, con. Ông Thực chết năm 2004, ông Mài chết năm 2001, ông Mãi chết năm 1990, ông Lăng chết năm 1976 (có 7 người con là NĐ_Nguyễn Văn Sâm, LQ_Nguyễn Văn Nghĩa, LQ_Nguyễn Văn Bân, LQ_Nguyễn Thị Nhi, LQ_Nguyễn Thị Duyên, LQ_Nguyễn Văn Ung, LQ_Nguyễn Thị Kim Hảo), bà Nhẹ chết có 5 người con gồm: Ông NĐ_Sỹ, ông LQ_Thịnh, bà LQ_Thư, bà LQ_Giang ,ông LQ_Mạnh. Do đó, các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Nữ và chị BĐ_Ánh phải chia 14 tổng diện tích đất của cụ Đinh, cụ Phước để lại cho các nguyên đơn.
243/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1177
- 38
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp diện tích 137.384 m2 là của cụ Ngô Văn Ba và cụ Nguyễn Thị Ca có từ trước giải phóng. Năm 1977 ông Ba chết, bà NĐ_Ngô Thị Anh sống chung với cụ Ca và canh tác. Năm 1995 bà NĐ_Anh được ủy ban nhân dân huyện TM, tỉnh ĐT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 20/04/1998 cụ Ca làm di chúc cho bà NĐ_Anh toàn bộ phần đất nhưng anh BĐ_Nguyễn Văn Hào và chị BĐ_Ngô Thị Hạnh Diễm chiếm hết đất vườn tạp trong phần diện tích 137.384 m2 mà bà NĐ_Anh được sử dụng. Nay bà NĐ_Anh đồng ý cho anh BĐ_Nguyễn Văn Hào và chị BĐ_Ngô Thị Hạnh Diễm sử dụng phần đất vườn tạp ngang 4m X dài 62m (phần anh BĐ_Hào, chị BĐ_Diễm đang ở) và yêu cầu anh BĐ_Hào, chị BĐ_Diễm trả phần đất lấn chiếm còn lại.