- Vụ việc, Vụ án: Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
- Loại vụ việc: Phúc thẩm
- Số hiệu: 130/2012/DS-PT
- Ngày tuyên án: 04-04-2012
- Kết quả vụ việc: Sửa bản án sơ thẩm
- Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15/06/2004 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Khoản 1, Khoản 2 Điều 275)
- Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày 14/06/2005 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực) (Điểm c Khoản 2 Điều 147)
- Luật Hôn nhân và gia đình số 21-LCT/HĐNN7 ngày 29/12/1986 của Quốc Hội (Văn bản hết hiệu lực)
164/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 5952
- 194
12/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1855
- 17
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Căn nhà lợp ngói có diện tích 80m2 (dài 20m ngang 4m) là của vợ chồng ông (NĐ_Tăng Thành Tú) và bà Nguyễn Thị Diệp. (Theo tờ bán đứt căn nhà đề ngày 16/8/1974 thì bà Diệp là người đứng tên mua nhà của vợ chồng bà Huỳnh Thị Ba và ông Lữ Thăng). Sau khi mua vợ chồng ông cho con gái là Tăng Thị Nâu ở và quản lý sử dụng. Năm 1976 vợ chồng ông cho Hợp tác xã PM mượn, năm 1977 Hợp tác xã trả nhà và ông bà giao cho chị Nâu tiếp tục sử dụng. Từ năm 1982 vợ chồng anh BĐ_Lộc về ở cùng chị Nâu, đến năm 1985 chị Nâu đi ở nơi khác thì vợ chồng anh BĐ_Lộc ở và quản lý sử dụng căn nhà này.
17/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1736
- 30
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Cuối năm 1979, bà đã giao dịch với bà Đặng Thị Nga để mua nhà 72 phố Lò Đúc, nhưng do bà không đủ tiền mua toàn bộ tầng 1, nên đã rủ bà LQ_Vũ Thị Luyến là mẹ chị BĐ_Lê Thị Sóng mua chung, giá nhà là 7.500đ, mỗi bên 1/2 là 3.750đ và 1/2 tiền thuế là 750đ, bà đã đưa số tiền đó cho bà Nga tại 31 phố BT. Sau đó bà đã đi làm thủ tục sang tên trước bạ và chuyển đồ đạc đến ở 72 phố Lò Đúc vào ngày 26/5/1980; tháng 8/1980 khi bà đi vắng, chị BĐ_Sóng đã phá khoá cửa nhà bỏ đồ của bà ra ngoài.
94/2013/GĐT-DS Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1580
- 53
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Theo đơn khởi kiện ngày 17/10/2003 nguyên đơn là ông Nguyễn Xuân Lai và bà Nguyễn Thị Nhân trình bày: Năm 1973, cha mẹ ông là cụ Nguyễn Xuân Ba và cụ Đặng Thị Tình mua căn nhà số 02 đường Nguyễn Thái Học, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định của cụ Nguyễn Cậy (sinh năm 1926), việc mua bán có giấy viết tay nay vẫn còn và cụ Cậy đang còn sống cũng xác nhận việc mua bán này. Nhà mua để làm nơi đậu xe, nhà lợp tôn quây lưới B40. Sau giải phóng năm 1975, cha mẹ ông bà vào Hợp tác xã xe khách Nghĩa Bình nên xe đậu tại bến xe. Đến năm 1977, cụ Ba cho tập thể Khu vực 6 phường Lê Hồng Phong mượn nhà để làm trường mẫu giáo và nơi hội họp của Khu vực.
281/2014/DS-ST: Tranh chấp quyền sở hữu tài sản Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1390
- 12
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/10/2005 và trong các lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn là bà NĐ_Nguyễn Thị Linh và thông qua người đại diện theo ủy quyền Phạm Thị Hồng trình bày: Căn nhà số 12 Lô F (nay mang số 257) VT, Phường 7, Quận X có nguồn gốc của ông Võ Văn Ưu, năm 1974 ông Ưu về quê ở LA sinh sống để lại căn nhà trên cho ông BĐ_Võ Sĩ Luân là 1 trong 7 người con của ông Ưu quản lý. Cũng trong thời gian này ông BĐ_Luân đã bán căn nhà này cho bà Nguyệt bằng giấy tay, năm 1976 bà NĐ_Nguyễn Thị Linh mua lại căn nhà này từ bà Nguyệt cũng bằng giấy tay (hiện giấy tay này đã thất lạc) với giá là 190.000đ.
01/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1344
- 41
363/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1199
- 9
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Ông NĐ_Gương bà NĐ_Chi là con của ông Chung Bồi (đã chết, không nhớ năm nào) và bà Nguyễn Thị Ngành (chết năm 1948). Bà Ngành là con của ông Nguyễn Văn Bảy (chết năm 1981) và bà Huỳnh Thị Xi (chết năm 1996). Ông Bảy bà Xi có tất cả 02 người con là bà Ngành và ông Nguyễn Văn Sang (chết năm 2003). Ông Sang (trước năm 1975 ông Sang còn có tên là Nguyễn Văn Ba - gọi là Ba Nhỏ) có tất cả 03 vợ. Người vợ thứ nhất là bà Nguyễn Thị Tư (chết năm 2001), không có con chung, chỉ có 02 người con nuôi là ông LQ_Đỗ Như Vân (còn có tên là Nguyễn Văn Trọng) và ông BĐ_Nguyễn Trung Thu. Người vợ thứ hai là bà LQ_Nguyễn Thị Ngân, có 02 người con chung là ông LQ_Nguyễn Văn Tuấn và bà LQ_Nguyễn Thị Bình. Người vợ thứ ba là bà Huỳnh Thị Truyện (chết không nhớ năm nào), có 01 con chung là bà LQ_Huỳnh Thị Hương. Bà LQ_Nguyễn Thị Ngân có tất cả 3 người con là ông LQ_Nguyễn Văn Tuấn, bà LQ_Nguyễn Thị Bình và ông Nguyễn Văn Rớt.
39/2014/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 836
- 17
15/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 788
- 10
Tranh chấp quyền sở hữu tài sản
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/8/2001, và trong quá trình giải quyết vụ án, bà NĐ_Ngô Thị Hạnh trình bày: Bà và ông Hàng Việt (chết ngày 23/11/1995) là vợ chồng chung sống từ năm 1950, có hai con chung là LQ_Trần Thanh Hoành, LQ_Hàng Lưu Sáng và một con nuôi là LQ_Hàng Huệ Lan; hai con Thanh Hoàng và Lưu Kim hiện đang sống tại Hoa Kỳ. Năm 1950 bà và ông Hàng Việt thuê căn nhà số 112 Nhân Vị, sau đổi thành Trần Hùng Quân (nay là số 240 NCT, phường X, quận M, thành phố HCM) của ông Trương Văn Bền để ở. Sau giải phóng vì căn nhà trên thuộc diện nhà do nhà nước quản lý nên thay vì ký hợp đồng với chủ nhà, vợ chồng bà tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với đội quản lý nhà thuộc ban xây dựng nhà đất quận M (hợp đồng thuê nhà số 325 ngày 05/11/1982 do chồng bà tên là Hàng Việt đứng tên thuê). Đến năm 1985, vợ chồng bà tiến hành thủ tục mua đứt căn nhà trên nhân đợt Nhà nước hoá giá nhà.
35/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 778
- 17