cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1634
  • 39

Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

06-12-2012
TAND cấp huyện

Ngày 09 tháng 03 năm 2011, bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc Linh khiếu nại việc BĐ_UBND huyện DK cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên và đã được BĐ_UBND huyện DK giải quyết bằng Công văn số 1654/UBND ngày 12/08/2011 trả lời cho bà NĐ_Linh với nội dung khiếu nại của bà có cơ sở để xem xét. Không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại của BĐ_UBND huyện DK, ngày 04/10/2011, bà NĐ_Linh có đơn khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01202/QSDĐ/SH-DK mang tên ông LQ_Nguyễn Ngọc Tùng, bà LQ_Nguyễn Thị Ngọc Châu.


03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1341
  • 43

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

23-05-2012
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện và được bổ sung tại phiên tòa, ông NĐ_Phạm Văn Tuấn và bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc trình bày: Vào năm 1995, chúng tôi được Ủy ban nhân dân thị xã CM (nay là thành phố CM) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất tọa lạc tại ấp Tân Trung, xã HT, thành phố CM, có diện tích 2.740m2, nguồn gốc do mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Hai cho tặng. Do hoàn cảnh khó khăn của gia đình, chúng tôi phải đi làm ăn xa không người quản lý đất, đến năm 2006 khi trở về, chúng tôi phát hiện Ủy ban nhân dân xã HT đã tự ý chiếm dụng và phân lô cho thuê. Chúng tôi đã gửi đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết trả lại. Ông Trần Hòa Xuân là BĐ_chủ tịch Ủy ban nhân dân đã dựng lên việc tranh chấp đất này giữa ông và ông Phạm Văn No. Qua 2 cấp Tòa án xét xử, bằng Bản án dân sự phúc thẩm số 201/2006/PTDS ngày 18/05/2006 Tòa án nhân dân tỉnh CM đã tuyên xử buộc phải trả lại tôi hiện trạng phần đất đã nêu trên. Khi bản án có hiệu lực pháp luật tôi đã gửi đơn với đầy đủ thủ tục hợp lệ để yêu cầu thi hành án. Bằng Quyết định số 1784/QĐ-THA của cơ quan thi hành án dân sự thành phố CM tuy nhiên từ đó đến nay bản án vẫn không được thi hành do quyết định sai trái do ông Hứa Minh Hữu ký ban hành có nội dung thu hồi quyền sử dụng phần đất nêu trên của tôi mà không có lý do chính đáng.


02/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 409
  • 8

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết tranh chấp đất đai

17-05-2012
TAND cấp huyện

Vào ngày 02 tháng 03 năm 2009, BĐ_Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố CM ban hành Quyết định số 01/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp đất giữa bà NĐ_Lê Thị Lý (ủy quyền ông Phạm Văn Sáng) với ông LQ_Phạm Văn Hảo, phần đất tọa lạc tại khóm 7, phường X, thành phố CM. Với nội dung bác yêu cầu đòi đất của ông Phạm Văn Sáng (người được bà NĐ_Lê Thị Lý ủy quyền); giữ nguyên hiện trạng phần đất đang tranh chấp cho ông LQ_Phạm Văn Hảo. Quyết định trên bà NĐ_Lê Thị Lý khiếu nại. Ngày 19 tháng 10 năm 2010, BĐ_Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố CM có Quyết định số 1601/QĐ-UBND có nội dung giữ y Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 02 tháng 03 năm 2009.


05/2015/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 2051
  • 39

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

22-05-2015
TAND cấp huyện

Căn nhà số 1009/6BL LG, phường 8, Quận X, thành phố HCM (số cũ) số mới 50B LG Phường 8, Quận X, thành phố HCM do vợ chồng bà NĐ_Sa mua lại của ông Võ Văn Cẩn vào năm 1962 diện tích là 71,05 m2, không lập văn tự mua bán, hai bên giao tiền và nhận nhà trực tiếp, caáu truùc nhà: mái tole, gác gỗ, tường gạch + vách caây, nền xi măng, gia đình bà NĐ_Sa được chính quyền chế độ cũ cấp tờ khai gia đình trước 1975. Căn nhà này từ khi mua đến nay gia đình bà NĐ_Sa và các con sử dụng ổn định lâu dài, không có tranh chaáp. Năm 1996 chồng bà NĐ_Sa là ông Nguyễn Văn Mỹ chết nên nhà này do bà NĐ_Sa và các đồng thừa kế của ông Mỹ đang sử dụng.


04/2015/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 2053
  • 34

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

08-05-2015
TAND cấp huyện

Căn nhà 1009/BL/11/T7/K9) LG, Khóm 9, phường BT, Quận X năm 2008 có thông báo đổi số nhà 1009/11BL số mới 56B LG, Phường 8,Quận X nên là một căn nhà do meï chồng bà tên Huỳnh Thị Ngài mua từ năm 1975 mua của ông Ngô Văn Thành, có giấy tay mua bán diện tích căn nhà là 71 m2 có cấu trùc: mái tole, vách tường + tole, nền gạch bông, có gác lưõng, nhà có 4 anh chị em cùng ở, còn cha chồng tên Lưu Văn Thính chết 1968. Năm 1978, bà lấy chồng là ông LQ_Lưu Văn Ngân rồi về ở tại căn nhà này, khi về ở thì phía sau đã có saün sàn nước diện tích 12,73m2 nên không mở rộng diện tích không xây dựng gì thêm. Năm 1982, mẹ chồng bà mất thì nhà này chưa làm thủ tục hợp thức hóa chủ quyền. Cũng trong năm 1982 chị chồng của bà là Huỳnh Thị Hai được chia thừa kế 1 phần diện tích là 28 m2, còn phần diện tích còn lại 43m2 vợ chồng bà sử dụng, các anh chị em khác là bà LQ_Lưu Thị Chi và ông Lưu Văn Minh không tranh chấp và ở riêng.