55/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 645
- 21
Bà NĐ_Huỳnh Thị Kiều kiện đòi vợ chồng ông BĐ_Bùi Văn Nên, bà BĐ_Nguyễn Thị Chi trả lại một phần đất của cha ông để lại. Vợ chồng ông BĐ_Nên, bà BĐ_Chi không đồng ý và cho rằng đất này vợ chồng ông quản lý sử dụng liên tục từ trước 1975 đã đăng ký sổ địa chính qua các thời kỳ 1980, 1991, 1995 và đóng thuế với Nhà nước. Đây chỉ là ý kiến phản bác của bị đơn đối với nguyên đơn mà không phải là yêu cầu phản tố nên không phải đóng tạm ứng án phí. Tòa án cấp cấp phúc thẩm nhận định: “ở cấp sơ thẩm bị đơn không đóng tiền tạm ứng án phí về yêu cầu công nhận quyền sử dụng phần diện tích đất tranh chấp cho mình nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại công nhận quyền sử dụng phần diện tích đất có tranh chấp cho bị đơn là vi phạm tố tụng” là không đúng.
54/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 872
- 35
Nguồn gốc nhà đất tại 161/36 (số cũ 161/137b) BHN, phường 7, quận Y, thành phố HCM là tài sản của cố Phan Thị Tuyết (là mẹ của cụ) mua từ năm 1950, có giấy phép tạm cất nhà do chính quyền chế độ cũ cấp. Cố Tuyết có 3 người con gái là cụ Bùi Thị Chính (Chôm), cụ Phan Thị Hiên và cụ (NĐ_Phan Thị Dung). Năm 1965 cố Tuyết chết không để lại di chúc. Ngày 07/8/1969 ba chị em cụ lập Văn bản thỏa thuận đồng ý cho cụ được thừa hưởng nhà đất nêu trên. Khi còn sống, năm 1959 cố Tuyết cho vợ chồng cụ Châu Văn Uẩn, cụ Tô Niên ở nhờ căn nhà trên, việc cho ở nhờ không làm giấy tờ. Năm 1980 cụ Uẩn chết, tháng 8/1993 cụ Tô Niên chết. Hiện nay căn nhà do ông BĐ_Phan Văn Quý (là con nuôi của vợ chồng cụ Tô Niên) quản lý, sử dụng nên cụ khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Quý trả nhà và cụ đồng ý thanh toán chi phí xây dựng cho ông BĐ_Quý.
53/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 259
- 8
Tháng 01/1999, bà LQ_Ly về Việt Nam, vợ chồng bà và bà LQ_Ly ra Ủy ban nhân dân phường TP làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất nhưng vì bà LQ_Ly có quốc tịch nước ngoài nên không hoàn tất được thủ tục. Ngày 13/01/1999, bà LQ_Ly viết đơn trả lại vợ chồng bà diện tích đất đã mua đồng thời vợ chồng bà cũng trả lại bà LQ_Ly 08 chỉ vàng. Ngày 14/01/1999, Ủy ban nhân dân phường TP giải quyết công nhận diện tích đất trên thuộc quyền sử dụng của gia đình bà và năm 2000 vợ chồng bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông NĐ_Nguyễn Công Tính là chồng bà). Do đó, yêu cầu vợ chồng bà BĐ_Loan, ông BĐ_Long trả lại gia đình bà diện tích đất trên, bồi thường giá trị khai thác sử dụng diện tích đất này từ năm 2000 đến nay và tiền thuế đất mà bà đã nộp từ năm 2000 đến nay.
674/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1153
- 20
Tranh chấp hợp đồng mua bán gỗ
Ngày 15/9/2005, NĐ_Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh địa ốc Thịnh Gia ký Hợp đồng kinh tế số 37/2005/HĐKT mua của BĐ_XN Tư doanh Tân Hoàng 500 m3 gỗ chò chỉ với thời gian giao hàng chậm chất đến ngày 14/01/2006. NĐ_Công ty Thịnh Gia đã đặt cọc 525.000.000 đồng nhưng cho đến ngày làm đơn khởi kiện (09/3/2006) vẫn chưa nhận được gỗ từ bên bán.
124/2006/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1027
- 25
Tranh chấp hợp đồng mua bán thiết bị y tế
Tại phiên toà hôm nay: Nguyên đơn giữ yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn nhận 12 máy siêu âm và 12 máy nghe tim thai, yêu cầu bị đơn chịu phạt 8% trị giá phần hợp đồng bị vi phạm là 274.560.000 đồng, chịu lãi chậm thanh toán 1,5%/tháng từ ngày 23.8.2006 đến ngày 23.12.2006 là 105.000.000 đồng.