14/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1534
- 48
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
Ông NĐ_Lê Văn Ngọc Thạch kết hôn với bà BĐ_Võ Thị Kim Linh năm 1980, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Năm 1996, ông NĐ_Thạch, bà BĐ_Linh thuận tình ly hôn, tại Quyết định số 81/QĐTTLH ngày 04/11/1996, Toà án nhân dân thành phố BMT, tỉnh ĐL đã công nhận sự thỏa thuận của ông NĐ_Thạch, bà BĐ_Linh về việc thuận tình ly hôn, xác định nghĩa vụ nuôi con chung và phân chia tài sản chung. Tuy nhiên, do ông NĐ_Thạch, bà BĐ_Linh chỉ thỏa thuận về chia tải sản chung mà không thỏa thuận về trách nhiệm trả các khoản nợ, nên tại Quyết định số 03/QĐKN-LH ngày 16/5/1998, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh ĐL đã kháng nghị phần chia tài sản chung của Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 04/GĐT-LH ngày 24/6/1998, Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh ĐL hủy phần chia tài sản chung của Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố BMT giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm về phần tài sản.
13/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1667
- 35
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
Chị Phạm Thị Mỹ Hạnh và anh Vũ Văn Xuân trước đây là vợ chồng. Hai người có 03 con chung, con lớn sinh năm: 1993, nhỏ nhất sinh năm: 1999. Năm 2003 chị Hạnh yêu cầu ly hôn. Tại bản án phúc thẩm số 11-HNGĐ-PT ngày 21/06/2004. Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT đã giải quyết trong quan hệ hôn nhân và con chung. Riêng về tài sản chung, nợ chung mặc dù Tòa án nhân dân huyện CĐ đã giải quyết sơ thẩm 02 lần (bản án sơ thẩm số 20/HNGĐ-ST ngày 21/04/2004 và bản án sơ thẩm số 16/2006/HNGĐ-ST ngày 16/01/2006) nhưng đều bị hai bản án phúc thẩm số 11/HNGĐ-PT ngày 21/06/2004 và bản án phúc thẩm số 51/DSPT ngày 06/04/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT xử hủy về phần chia tài sản để giải quyết lại sơ thẩm với lý do: Bản án sơ thẩm chưa đề cập xem xét giải quyết đầy đủ các yêu cầu của các đương sự, vi phạm các Điều 5, 58, 60, 61 và 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
551/2015/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1583
- 46
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
NĐ_Tổng công ty Điện ABC khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Lê Văn Kiên bồi thường thiệt hại do vi phạm sử dụng điện, truy thu số tiền do sử dụng điện không có hợp đồng mua bán điện là 37.173.648 đồng (ba mươi bảy triệu một trăm bảy mươi ba nghìn sáu trăm bốn mươi tám đồng) theo bảng chiết tính điện năng bồi thường - tính toán tiền bồi thường, tiền phạt do vi phạm sử dụng điện số 83/PCBC-QLKH ngày 04/3/2013 mà Công ty điện lực BC đã thông báo cho ông BĐ_Lê Văn Kiên. Yêu cầu thực hiện bồi thường ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật
12/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1295
- 35
Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/5/2005 và các lời khai của chị Nghiêm Thị Bình (con gái bà NĐ_Vy) và của chị Nguyễn Thị Quỳnh Mai đều là đại diện của nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Kim Vy, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và đại diện nguyên đơn trình bày: Căn nhà số 19 ngõ Hồ Bãi Cát trên diện tích đất 17,7 m2 thuộc thừa số 178 tờ bản đồ 6H-I-10 là của bà NĐ_Vy (bà NĐ_Vy đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ngày 15/6/2004). năm 1998, bà NĐ_Vy cho con trai là anh BĐ_Nghiêm Xuân Trân vào ở nhờ. Năm 2003, trong khi bà NĐ_Vy đi thăm con tại Canada, anh BĐ_Trân đã ngang nhiên bán căn nhà này cho vợ chồng anh LQ_Chung Quốc Vinh, chị LQ_Nguyễn Thị Tâm. Anh LQ_Vinh tuy biết nhà không phải thuộc sở hữu của anh BĐ_Trân nhưng vẫn cố tình mua. Anh LQ_Vinh, anh BĐ_Trân đã phá nhà cũ và xây lại thành nhà 4,5 tầng và nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc anh BĐ_Trân, anh LQ_Vinh trả lại nhà đất và bà NĐ_Vy sẽ thanh toán cho anh LQ_Vinh, anh BĐ_Trân 50% giá trị xây dựng nhà.
11/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 3913
- 133
Từ năm 1997 đến năm 2000, bà cho ông BĐ_Thân, bà BĐ_Bảo mượn 40 lượng vàng ( vay 3 lần), nhưng chỉ tính lãi 20 lượng vàng; còn 20 lượng thì bà BĐ_Bảo mua giùm bà 2 nền nhà ở chợ Cái Tắc vào năm 2001, nên vợ chồng bà BĐ_Bảo chỉ còn nợ bà 20 lượng vàng. Năm 2001, bà đồng ý cho bà BĐ_Bảo cất 1 căn nhà tạm trên phần đất thổ cư để làm quán bán giải khát, nhưng bà BĐ_Bảo lại cất nhà cấp 4. Bà và bà BĐ_Bảo thỏa thuận rằng : bà lấy căn nhà cấp 4 nói trên; còn bà BĐ_Bảo lấy một trong hai nền nhà tại chợ Cái Tắc; bà BĐ_Bảo sang tên 10.206m2 đất nói trên cho ông Nguyễn Tấn Thành (em chồng bà ). Sau đó, vợ chồng bà BĐ_Bảo bán một nền nhà của bà ( còn lại) ở chợ Cái Tắc và đã đưa tiền cho bà. Còn thỏa thuận nói trên thì vợ chồng bà BĐ_Bảo không thực hiện.