cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

963/2014/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 613
  • 7

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

05-08-2014
TAND cấp tỉnh

Ngày 17/9/2010, bà BĐ_Nguyễn Thị Tâm và bà BĐ_Nguyễn Thị Kiều Lan có ký hợp đồng (bằng giấy tay) để vay của ông số tiền là 150.000.000 (Một trăm năm mươi triệu) đồng, thời hạn vay tối đa không quá 90 ngày; theo hợp đồng mỗi ngày bà BĐ_Tâm và bà BĐ_Lan trả góp cho ông 3.000.000 (Ba triệu) đồng và trả trong thời hạn 60 ngày là dứt hết nợ vốn và lãi. Sau khi ký tên nhận tiền xong, bà BĐ_Tâm và bà BĐ_Lan chỉ trả cho ông được 3 ngày tổng cộng là 9.000.000 (Chín triệu) đồng rồi không trả nữa.


675/2016/DS-PT: Tranh chấp thừa kế Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1011
  • 35

Tranh chấp thừa kế

02-06-2016
TAND cấp tỉnh

Trong quá trình chung sống ông Bèn và bà Chính tạo lập được căn nhà có diện tích 114,7m2 tọa lạc tại số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM (nhà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở). Ông Bèn chết năm 1982 không để lại di chúc, tính đến thời điểm bà NĐ_Linh có đơn khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện nên phần di sản của ông Bèn để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM được các đồng thừa kế của ông Bèn thỏa thuận là tài sản chung tại biên bản thỏa thuận ngày 07/12/2008. Đối với phần di sản của bà Chính để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM, phía bị đơn cung cấp di chúc thì bà NĐ_Linh đề nghị Tòa án xem xét tính hợp pháp của di chúc để phân xử theo quy định của pháp luật. Nay bà NĐ_Linh khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của bà Chính và tài sản chung của các đồng thừa kế (phần di sản của ông Bèn đã được các đồng thừa kế thỏa thuận) là giá trị nhà, đất nêu trên theo quy định của pháp luật.


25/2013/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động

  • 1494
  • 37

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)

04-11-2013
TAND cấp huyện

Ông vào làm việc tại BĐ_Công Ty TNHH Dự Án Hải Minh từ ngày 11/7/2012. Đến ngày 10/8/2012 hai bên tiến hành ký hợp đồng lao động ghi ngày 18/7/2012. Theo đó, thời hạn hợp đồng là 12 tháng, chức vụ là Phụ trách pháp lý, tiền lương 83.200.000 đồng. Đến ngày 10/8/2012 bà Vũ Thị Thu Trang – Giám đốc nhân sự của công ty thông báo cho ông biết là ông không đáp ứng được yêu cầu công việc nên BĐ_Công Ty TNHH Dự Án Hải Minh chấm dứt hợp đồng lao động với ông và trục xuất ông ra khỏi nơi làm việc. Như vậy, việc công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông là trái pháp luật do đó ông yêu cầu BĐ_Công Ty TNHH Dự Án Hải Minh phải nhận ông trở lại làm việc và thanh toán cho ông các khoản sau: Tiền lương từ ngày 11/8/2012 – 10/7/2013 là 11 tháng, thành tiền l.913.000.000 đồng. Bồi thường 02 tháng tiền lương do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là 166.000.000 đồng. Thanh toán tiền lương tháng 13 tương đương 83.000.000 đồng.


06/2013/LĐ-ST: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Sơ thẩm Lao động

  • 3048
  • 87

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

08-08-2013
TAND cấp huyện

Ông NĐ_Thịnh làm việc tại BĐ_Công ty CP Công trình giao thông 05 vào ngày 23 tháng 9 năm 1995 theo loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Đến ngày 01/01/2005 ông được đề bạt làm quyền trưởng phòng vật tư. Lúc đó, ông Nguyễn Ngọc Luận đã là Phó phòng phụ trách vật tư luân chuyển, theo dõi vật tư tại các kho trong đó có kho Rạch Chiếc của Công ty trong nhiều năm trước. Sau đó, vào tháng 5/2006, ông Luận chuyển sang công tác khác nhưng không có bàn giao công việc và chứng từ sổ sách cho ông NĐ_Thịnh. Cuối năm 2006 sau khi tổ chức kiểm kê, ông NĐ_Thịnh phát hiện ở kho Rạch Chiếc mất 94 tấn sắt thép và có báo cáo lãnh đạo BĐ_Công ty 05 và Tổng công ty 6. Sau đó, Công ty cho biết chỉ còn mất 33,572 tấn sắt thép và quy chụp ông NĐ_Thịnh phải chịu trách nhiệm, nói ông phải chứng minh được là không phải lỗi của ông.


06/2013/LĐ-ST: Tranh chấp về tiền lương Sơ thẩm Lao động

  • 2289
  • 36

Tranh chấp về tiền lương

08-08-2013
TAND cấp huyện

Ông NĐ_Thịnh làm việc tại BĐ_Công ty CP Công trình giao thông 05 vào ngày 23 tháng 9 năm 1995 theo loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Đến ngày 01/01/2005 ông được đề bạt làm quyền trưởng phòng vật tư. Lúc đó, ông Nguyễn Ngọc Luận đã là Phó phòng phụ trách vật tư luân chuyển, theo dõi vật tư tại các kho trong đó có kho Rạch Chiếc của Công ty trong nhiều năm trước. Sau đó, vào tháng 5/2006, ông Luận chuyển sang công tác khác nhưng không có bàn giao công việc và chứng từ sổ sách cho ông NĐ_Thịnh. Cuối năm 2006 sau khi tổ chức kiểm kê, ông NĐ_Thịnh phát hiện ở kho Rạch Chiếc mất 94 tấn sắt thép và có báo cáo lãnh đạo BĐ_Công ty 05 và Tổng công ty 6. Sau đó, Công ty cho biết chỉ còn mất 33,572 tấn sắt thép và quy chụp ông NĐ_Thịnh phải chịu trách nhiệm, nói ông phải chứng minh được là không phải lỗi của ông.