237/2016/DSPT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1697
- 46
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Vào ngày 28/12/2004 vợ chồng ông NĐ_Nguyễn Thanh Tú, bà LQ_Tô Tú Trà và vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Văn Hà, bà BĐ_Lưu Thị Bích Thanh có ký kết hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng đất ở tại số 327/4 Quốc Lộ 13, khu phố 3, phường HBC, quận TĐ với tổng diện tích là 1.358,8m2. Việc mua bán không có bản vẽ, chỉ mua theo giấy chứng nhận không đo giáp ranh. Hợp đồng đã được thực hiện và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã được cập nhật sang tên ông NĐ_Tú, bà LQ_Trà ngày 11/01/2006.
65/2016/DSPT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 951
- 13
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Vào tháng 9/2010, ông có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa chỉ số 27/22 ấp Thới Tứ, xã TTT, huyện HM của vợ chồng BĐ_Phương Hồng Thủy, LQ_Vũ Thị Hoa theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 01158 ngày 17/9/2010 với giá 01 tỷ đồng, hai bên ký kết Hợp đồng công chứng số 008020 ngày 07/10/2010 tại Văn phòng công chứng Tân Bình. Hai bên thống nhất ông BĐ_Thủy và bà LQ_Hoa xây nhà cho ông NĐ_Phúc với giá 600 triệu đồng, giao trước 500 triệu đồng, đến khi nào hoàn công, sang tên sẽ giao 100 triệu đồng còn lại. Khi xây nhà xong, ông BĐ_Thủy và bà LQ_Hoa nhiều lần trì hoãn không giao nhà và tiến hành làm thủ tục sang tên.
100/2013/GĐT-DS: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1892
- 109
Theo đơn khởi kiện tháng 7 năm 1993 nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng trình bày: Cha mẹ ông là cụ Vũ Đình Quảng và cụ Nguyễn Thị Thênh sinh được 6 người con là ông Vũ Đình Đường, bà Vũ Thị Cẩm, bà Vũ Thị Thảo, ông, bà Vũ Thị Tiến (tức Hiền) và bà Vũ Thị Hậu. Cụ Quảng và cụ Thênh tạo lập được căn nhà số 66 phố Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, diện tích 123m2. Năm 1979 cụ Quảng chết không để lại di chúc, căn nhà do cụ Thênh và 3 con là ông, bà Hậu, bà Tiến ở; ông Đường, bà Thảo và bà Cẩm đều xuất cảnh đi nước ngoài. Tại biên bản họp gia đình ngày 28/10/1982, cụ Thênh và ông, bà Tiến, bà Hậu thỏa thuận tạm thời phân chia nhà thành 3 phần cho ông, bà Hậu và bà Tiến sử dụng. Năm 1987, cụ Thênh chết. Sau đó năm 1989, bà Tiến đã lén lút bán phần nhà được tạm chia cho bà Nguyễn Thị Kim Oanh. Khi ông đã có đơn khởi kiện chia thừa kế ra Tòa án rồi nhưng ngày 31/10/1993 bà Hậu đã bán tiếp phần nhà bà Hậu được tạm chia cho bà Hà Thùy Linh.
219/2013/DSPT: Áp dụng K8 Đ409 BLDS 2005 về giải thích HĐ mẫu trong tranh chấp mua bán căn hộ tại Cao ốc Good House Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 6681
- 263
Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ
Theo Khoản 4.4 Điều 4 của hợp đồng có quy định Bên A được phép gia hạn thời hạn bàn giao căn hộ tối đa là 06 (sáu) tháng kể từ ngày kết thúc thời hạn bàn giao căn hộ. Vấn đề này được diễn giải tại Khoản 4.4.1 và 4.4.2 nhưng BĐ_Công ty Lê Tuấn không chứng minh được đã có văn bản thông báo về việc kéo dài thời hạn bàn giao căn hộ hoặc do Công ty gặp sự kiện bất khả kháng hoặc xuất phát từ điều kiện kỹ thuật thi công
1124/2015/ ST- HNGĐ: Ly hôn Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1416
- 79
Tại đơn khởi kiện yêu cầu cầu về việc ly hôn ngày 09/9/2015 và tại phiên tòa, nguyên đơn ông NĐ_Đào Ngọc Chân trình bày: Ông và bà BĐ_Nguyễn Thị Huyền Loan tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 66TH, quyển số 01/1998 ngày 14/7/1998 tại Ủy ban nhân dân Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình chung sống ban đầu hạnh phúc về sau giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn từ năm 1998 do bất đồng quan điểm, bà BĐ_Loan không thực sự quý đời sống gia đình nên khiến đời sống hôn nhân căng thẳng, mệt mỏi. Nay mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn hạnh phúc, đời sống vợ chồng không thể kéo dài nên ông NĐ_Chân yêu cầu ly hôn để ổn định cuộc sống.