cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1779
  • 39

Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

06-12-2012
TAND cấp huyện

Ngày 09 tháng 03 năm 2011, bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc Linh khiếu nại việc BĐ_UBND huyện DK cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên và đã được BĐ_UBND huyện DK giải quyết bằng Công văn số 1654/UBND ngày 12/08/2011 trả lời cho bà NĐ_Linh với nội dung khiếu nại của bà có cơ sở để xem xét. Không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại của BĐ_UBND huyện DK, ngày 04/10/2011, bà NĐ_Linh có đơn khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01202/QSDĐ/SH-DK mang tên ông LQ_Nguyễn Ngọc Tùng, bà LQ_Nguyễn Thị Ngọc Châu.


03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1444
  • 43

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

23-05-2012
TAND cấp huyện

Tại đơn khởi kiện và được bổ sung tại phiên tòa, ông NĐ_Phạm Văn Tuấn và bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc trình bày: Vào năm 1995, chúng tôi được Ủy ban nhân dân thị xã CM (nay là thành phố CM) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất tọa lạc tại ấp Tân Trung, xã HT, thành phố CM, có diện tích 2.740m2, nguồn gốc do mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Hai cho tặng. Do hoàn cảnh khó khăn của gia đình, chúng tôi phải đi làm ăn xa không người quản lý đất, đến năm 2006 khi trở về, chúng tôi phát hiện Ủy ban nhân dân xã HT đã tự ý chiếm dụng và phân lô cho thuê. Chúng tôi đã gửi đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết trả lại. Ông Trần Hòa Xuân là BĐ_chủ tịch Ủy ban nhân dân đã dựng lên việc tranh chấp đất này giữa ông và ông Phạm Văn No. Qua 2 cấp Tòa án xét xử, bằng Bản án dân sự phúc thẩm số 201/2006/PTDS ngày 18/05/2006 Tòa án nhân dân tỉnh CM đã tuyên xử buộc phải trả lại tôi hiện trạng phần đất đã nêu trên. Khi bản án có hiệu lực pháp luật tôi đã gửi đơn với đầy đủ thủ tục hợp lệ để yêu cầu thi hành án. Bằng Quyết định số 1784/QĐ-THA của cơ quan thi hành án dân sự thành phố CM tuy nhiên từ đó đến nay bản án vẫn không được thi hành do quyết định sai trái do ông Hứa Minh Hữu ký ban hành có nội dung thu hồi quyền sử dụng phần đất nêu trên của tôi mà không có lý do chính đáng.


02/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 533
  • 8

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết tranh chấp đất đai

17-05-2012
TAND cấp huyện

Vào ngày 02 tháng 03 năm 2009, BĐ_Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố CM ban hành Quyết định số 01/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp đất giữa bà NĐ_Lê Thị Lý (ủy quyền ông Phạm Văn Sáng) với ông LQ_Phạm Văn Hảo, phần đất tọa lạc tại khóm 7, phường X, thành phố CM. Với nội dung bác yêu cầu đòi đất của ông Phạm Văn Sáng (người được bà NĐ_Lê Thị Lý ủy quyền); giữ nguyên hiện trạng phần đất đang tranh chấp cho ông LQ_Phạm Văn Hảo. Quyết định trên bà NĐ_Lê Thị Lý khiếu nại. Ngày 19 tháng 10 năm 2010, BĐ_Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố CM có Quyết định số 1601/QĐ-UBND có nội dung giữ y Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 02 tháng 03 năm 2009.


36/2010/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2807
  • 110

Đòi lại tiền cọc thực hiện hợp đồng mua bán nhà

24-11-2010
TAND cấp huyện

Ngày 20/9/2007 qua sự giới thiệu của ông Thang Lưu Hồng và bà Nguyễn Thị Sâm thì ông có đến nhà 222 HTP, phường TTT, Quận Z, thành phố HCM để xem nhà. Được biết bà BĐ_Hoa bán căn nhà 222 HTP cấu trúc vách tường, mái tôn, phía sau có gác gỗ, diện tích 6,5m x 38m = 247m2 với giá 7.100.000.000đ (bảy tỷ một trăm triệu đồng) tương đương 25.000.000đ/m2, theo bà BĐ_Hoa trình bày nhà có giấy tờ đầy đủ. Ngày 22/9/2007 ông NĐ_Ngà đặt cọc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), ngày 23/9/2007 đặt cọc tiếp 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), tổng số tiền đặt cọc đã đưa là 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng) hai bên có ký “Giấy đặt cọc bán nhà” vào ngày 22/9/2007. Sau khi đặt cọc ông có yêu cầu bà BĐ_Hoa đưa giấy tờ nhà cho ông xem và bà BĐ_Hoa có photo cho ông 01 bản giấy chủ quyền nhà, do có việc bận nên ông về ngay chưa xem kỹ nội dung giấy chủ quyền.


29/2010/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1669
  • 20

Tranh chấp hợp đồng mua bán xe gắn máy

30-09-2010
TAND cấp huyện

Ngày 08/6/2008, NĐ_Công ty cổ phần Hà Hải và ông NĐ_Nguyễn Văn Linh có ký hợp đồng mua bán xe gắn máy số 839889, hai bên thỏa thuận NĐ_Công ty cổ phần Hà Hải bán cho ông NĐ_Nguyễn Văn Linh một chiếc xe mô tô hai bánh hiệu MIKADO, loại xe 110, số máy VTTJL1P52FMN030261; số khung RRKWCHOUM7XP30261 vói giá 12.372.000đồng (mười hai triệu, ba trăm bảy mươi hai nghìn đồng). Ông NĐ_Linh thanh toán ngay sau ký hợp đồng !à 1.500.000 đồng, số tiền còn lại ông NĐ_Linh trả góp cho Công ty mỗi tháng là 453.000 đồng, trả trong thời hạn 24 tháng bắt đầu từ ngày 08/7/2008. Sau khi nhận xe ông NĐ_Linh trả góp cho Công ty được 04 tháng với tổng số tiền là 1.800.000 đồng, từ ngày 18/11/2008 cho đến nay ông NĐ_Linh không tiếp tục trả nữa mặc dù Công ty đã nhắc nhở nhiều lần. Nay Công ty yêu cầu ông NĐ_Linh trả ngay một lần số tiền còn nợ là 9.027.000 đồng (chín triệu không trăm hai mươi bảy nghìn đồng) và toàn bộ lãi xuất theo mức lãi xuất của Ngân hàng tính trung bình 1%/tháng từ ngày 18/11/2008 đến ngày xét xử là 1.171.548 đồng (một triệu, một trăm bảy mốt nghìn, năm trăm bốn tám đồng).