58/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1828
- 32
Về tài sản cố Chẩm và cố Ngát có nhà tranh vách đất, sân gạch, bể nước trên diện tích đất hiện nay là 650,24m2 (trích lục bản đồ năm 1973 ghi cố Chẩm, cố Ngát đứng tên sử dụng 706m2 đất) tại thôn Chính Trung, xã Trâu Quỳ, huyện GL, thành phố HN. Năm 1955 hai cố bị cụ Toàn (con dâu) tố là địa chủ nên bị tịch thu nhà, đất. Năm 1956 Nhà nước sửa sai hạ thành phần nên trả lại nhà đất cho 2 cố đồng thời cấp đất khác cho cụ Toàn. Cụ Toàn bán đất được cấp và xin lỗi hai cố, được hai cố chấp nhận nên cụ Toàn về ở cùng hai cố. Sau đó, cố Chẩm ra ở với cụ Lập và chết năm 1968 nên nhà chỉ còn cố Ngát và cụ Toàn ở. Năm 1979 cố Ngát ốm nặng, cụ Lập đón về chăm sóc và cố Ngát chết tại nhà cụ Lập. Năm 1980 cụ Toàn phá nhà của hai cố xây dựng nhà mới, tuy nhiên phần móng, bể nước và sân gạch của hai cố vẫn còn. Năm 1988, cụ Toàn cho con gái là bà Hạnh 227m2 đất, bà Hạnh đã bán, còn lại nhà trên 445m2 đất ông BĐ_Chiến quản lý, sử dụng.
03/2006/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 2776
- 83
Căn cứ quyết định số 146/2000/QĐ-UB ngày 15/3/2000 của UBND tỉnh TB (BL.23) – Phê duyệt mức vốn vay “Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm” đối với dự án sản xuất và chế biến nấm xuất khẩu của Công ty Nấm xuất khẩu Thanh Bình, ngày 25/4/2000 Kho bạc nhà nước tỉnh TB (nay là NĐ_Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh TB ) đã ký hợp đồng tín dụng số 68/HĐ-TD (BL 32) cho ông BĐ_Nguyễn Tiến Thịnh – “Giám đốc Công ty” vay 200.000.000 đồng, mục đích vay để”mở rộng dây chuyền sản xuất và chế biến nấm xuất khẩu”; thời hạn vay là 24 tháng; lãi suất vay trong hạn là 0,5%/tháng; lãi quá hạn là 1%/tháng; hình thức đảm bảo: “Bảo lãnh bằng tài sản” của một số cá nhân
20/2003/HĐTP-KT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 1044
- 28
Yêu cầu chấm dứt hành vi quảng cáo trái pháp luật
Ngày 23/7/2001, NĐ_Công ty TNHH sản xuất và thương mại Tuấn An do ông Trần Chí Lương, chức vụ Phó giám đốc đại diện; NĐ_Công ty TNHH sản xuất Mousse Trung Quân do bà Lưu Thuý Châu, chức vụ Giám đốc đại diện và NĐ_Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Lan Khuê do ông Nguyễn Văn Dang, chức vụ Giám đốc đại diện cùng khởi kiện yêu cầu BĐ_Công ty cổ phần cao su Vitsean (gọi tắt là BĐ_Công ty Vitsean) phải chấm dứt hành vi quảng cáo trái pháp luật gây ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng sản phẩm của các Công ty, phải đăng cải chính và xin lỗi công khai các nguyên đơn trên các báo mà BĐ_Công ty Vitsean đã đăng trong tháng 7/2001. Các nguyên đơn không yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất tinh thần vì thiệt hại thực tế không tính được.
08/2003/HĐTP-DS Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 2026
- 48
Ngày 30/05/1996, NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Thanh Nga ký hợp đồng thuê nhà số 47 TXS của ông Nguyễn Hữu Lâm với thời hạn 3 năm để mở nhà hàng ăn uống có tên gọi là Nhà hàng Phương Hà. Nhà hàng Phương Hà do 5 người góp vốn kinh doanh là các ông: Nguyễn Quốc Hoài, LQ_Nguyễn Tuấn Quân, LQ_Đặng Minh Quang, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Hữu Long (ông Thành và ông Long là em ruột của ông Lâm). Trong quá trình kinh doanh dịch vụ ăn uống thì ngày 31/07/1998, NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Thanh Nga có đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá và đã được Cục Sở hữu công nghiệp cấp giấy chứng nhận số 32102 (Theo Quyết định số 2905/QĐNH ngày 19/09/1999) bảo hộ nhãn hiệu Nhà hàng Phương Hà với lô gô gồm có hình vẽ nhà hàng và hình người cưỡi ngựa cho dịch vụ cửa hàng ăn uống giải khát thuộc nhóm 42. Do hết hạn hợp đồng thuê nhà và ông Lâm không cho thuê nữa nên ngày 26/07/1999, các ông Hoài, LQ_Tuấn Quân và LQ_Quang đã lập giấy bán phần tài sản đầu tư vào cửa hàng cho ông Lâm với giá 260.000.000 đồng một suất, ba suất là 780.000.000 đồng. Sau đó các ông Hoài, LQ_Tuấn Quân và LQ_Quang thuê nhà số 32 TS để mở lại nhà hàng Phương Hà.
66/2011/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2391
- 57
Ngôi nhà đất có giá trị 1.178.771.190đ toạ lạc tại 13/1 Hà Ra, khóm Vạn Lợi, phường VT, thành phố NT, tỉnh KH là di sản của vợ chồng ông Lê Phan (chết 1986), bà Phạm Thị Đó (chết 2008) để lại. Năm 1986 ông Lê Phan chết không để lại di chúc, kể từ đó đến trước khi bà NĐ_Mai khởi kiện, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Phan không có ai yêu cầu chia thừa kế phần di sản của ông Phan theo pháp luật. Vì vậy, di sản của ông Phan vẫn còn đó, dù có còn hay hết thời hiệu khởi kiện cũng như chưa đủ điều kiện chia tài sản chung phần di sản của ông Phan như án sơ thẩm án sơ thẩm xác định thì bà Phạm Thị Đó cũng không có quyền định đoạt đối với phần di sản của ông Phan. Muốn định đoạt đối với phần di sản của ông Phan phải có sự thống nhất của các đồng thừa kế của ông Phan gồm bà Đó và những người con chung của ông bà. Do đó, việc bà Đó lập di chúc ngày 16/5/2003 định đoạt cả phần di sản của ông Phan là không hợp pháp.