06/2013/LĐ-ST: Yêu cầu bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật Sơ thẩm Lao động
- 1648
- 37
Yêu cầu bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của Nguyên đơn, Bà NĐ_Đặng Thị Kim Chi thì: Ngày 01/6/2011 bà được nhận vào làm việc tại BĐ_Công ty Cổ Phần Trang Trí Nội Thất Song Thư với mức lương thử việc 15.000.000 đồng/tháng, lương chính thức là 17.250.000 đồng, thời gian thử việc là 02 tháng. Những thỏa thuận này được ghi trong thư mời thử việc ngày 06/6/2011. Đến ngày 01/8/2011 bà ký hợp đồng lao động chính thức với Công ty kèm theo hợp đồng trách nhiệm. Mức lương chính thức là 17.250.000 đồng như thỏa thuận ban đầu, nhưng lương trong hợp đồng là 4.050.000 đồng (đây là mức lương để đăng ký với cơ quan Bảo hiểm xã hội quận TB).
02/2013/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 2263
- 74
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Bà NĐ_Anna Diana Fatrness được BĐ_Công ty TNHH Quốc tế JSS Việt Nam (sau đây gọi tắt là BĐ_trường Quốc tế JSS) tuyển dụng theo hợp đồng lao động ngày 17/6/2010. Theo hợp đồng hai bên thỏa thuận gồm: thời hạn làm việc là 02 năm, tính từ ngày 01/8/2010, chức vụ là giáo viên cấp 2, tiền lương 39.000 USD (ba mươi chín nghìn đô la)/năm, phụ cấp tiền nhà 825 USD/tháng, phụ cấp di chuyển đến chỗ mới: 500 USD, thuế thu nhập cá nhân do BĐ_trường Quốc tế JSS nộp. Ngày 30/3/2011, bà NĐ_Anna nhận được thư điện tử của BĐ_trường Quốc tế JSS thông báo hợp đồng lao động sẽ chấm dứt vào ngày 31/7/2011 căn cứ điều 9.1 hợp đồng lao động và do trường tinh giảm biên chế. Ngày 31/5/2011, BĐ_trường Quốc tế JSS chính thức ra văn bản cho bà NĐ_Anna nghỉ việc. Trong thời gian làm việc tại trường, bà NĐ_Anna nhận được tiền lương 3.250USD/tháng, phụ cấp 825USD/tháng, tiền di chuyển đến nơi ở mới 500USD. Bà NĐ_Anna đã nhận lương và phụ cấp đến hết tháng 6/2011.
03/2013/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 550
- 35
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Bà NĐ_Tạ Ngọc Hân vào làm việc cho BĐ_Công ty TNHH Vận Tải Hà Anh và có ký hợp đồng lao động ngày 10/07/2009; với thời gian thử việc là 3 tháng (mức lương cơ bản là 1.500.000đồng/tháng); hết thời gian thử việc công ty không ký hợp đồng lại nhưng ông vẫn làm việc với hợp đồng lao động không xác định thời hạn và mức lương tăng theo thỏa thuận là 2.300.000đồng/tháng, bà NĐ_Hân vẫn hoàn thành công việc được giao. Đến ngày 28/01/2011 Công ty ra quyết định kỷ luật và buộc thôi việc với lý do: “Buộc thôi việc với với bà NĐ_Tạ Ngọc Hân- nhân viên hướng dẫn tại Bến xe Miền Đông về việc vi phạm nội quy- quy chế của Công ty. Có biểu hiện thông đồng điều hành nhận hàng Công ty gửi ngoài nhằm tư lợi cán nhân’’
01/2013/LĐ-ST: Yêu cầu bồi thường do vi phạm hợp đồng lao động Sơ thẩm Lao động
- 7251
- 270
Yêu cầu bồi thường do vi phạm hợp đồng lao động
Tại đơn khởi kiện, các bản tự khai, biên bản hòa giải, biên bản đối chất, biên bản làm việc và tại phiên tòa nguyên đơn NĐ_Công ty TNHH Dũng Tín có bà Nguyễn Thị Thanh Trúc đại diện trình bày: Ngày 01/11/2005 ông BĐ_Konwar Pramed Sangh (gọi tắt là BĐ_KP) có ký hợp đồng lao động với Công ty trách nhiệm hữu hạn D & A (gọi tắt là Công ty), chức danh của ông BĐ_KP là giám đốc và kiêm thêm chức vụ quản lý bất động sản. Cùng ngày 01/11/2005 ông BĐ_KP và Công ty có ký kết “Cam kết bảo mật và không xung đột lợi ích” với nội dung chính như sau: “- Nhân viên cam kết rằng trong suốt thời gian làm việc cho Công ty và sau khi chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty, Nhân viên sẽ giữ bí mật không tiết lộ cho bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khác biết, trừ những cá nhân được Công ty thuê thực hiện công việc phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Công ty những Thôn Tin Mật, kể cả những thông tin do nhân viên tự thu thập…(theo điều 2);
01/2013/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 1528
- 19
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Vào ngày 16/10/2008, ông và BĐ_Công ty Cổ phần Xuất Nhập Khẩu và Dịch vụ Nam An (sau đây gọi tắt là Công ty) ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 03/2008/QĐ-HĐQT, công việc chính là phụ trách kế toán, mức lương thoả thuận là bậc 2/6, hệ số lương 4.66. Đến khoảng tháng 07/2009, Công ty mượn lại bản chính hợp đồng và yêu cầu ông ký lại hợp đồng số 04/HĐLĐ nhưng vẫn ghi là ký ngày 16/10/2008 với lý do là để đăng ký lên Phòng lao động thương binh xã hội, sau đó Công ty không trả lại cho ông bản chính hợp đồng số 03/2008/QĐ-HĐQT nên ông chỉ có bản phô tô. Do tin tưởng Công ty nên khi ký hợp đồng số 04/HĐLĐ ông không đọc nội dung trong đó bậc lương của ông chỉ là 1/8 và hệ số 2.34. Ông xác nhận trong hợp đồng số 03/2008/QĐ-HĐQT (bản phô tô) nộp cho tòa án thì tại Điều 3 của hợp đồng có ghi hai bậc lương: 1/8, 2/6 và hai hệ số lương: 2.34, 4.66. Lý do là khi mượn lại bản chính hợp đồng số 03/2008/QĐ-HĐQT Công ty đã tự ghi thêm vào bậc 1/8, hệ số 2.34. Đến ngày 08/12/2008 Công ty ra quyết định (không số) nâng lương cho ông lên bậc 2/6, hệ số lương 4.66. Ngày 24/3/2009, Công ty có quyết định số 11/2009/QĐ.NA về việc bổ nhiệm ông làm Phó phòng tài chính kế toán. Tuy nhiên ông vẫn nhận lương với bậc 2/6, hệ số 4.66.