03/2014/HSPT1: tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139) Giám đốc thẩm Hình sự
- 1614
- 41
(Điều 139) Vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo bản Cáo trạng của Viện kiểm sát quân sự Quân khu 2 và Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2014/HSST ngày 20-02-2014 của Toà án quân sự Quân khu 2 thì nội dung vụ án tóm tắt nh¬ư sau: Cuối năm 2009, Trương Văn Doãn được Lưu Thị Hồng nói quen biết nhiều người có khả năng xin được vào học các Học viện, Nhà trường trong Quân đội và xin việc làm, chuyển công tác về một số cơ quan trong tỉnh Sơn La. Hồng thỏa thận với Doãn mỗi trường hợp xin được thì mỗi người hưởng 10 triệu đồng. Thông qua công việc và các mối quan hệ, Doãn đã gặp nhiều người và nói với họ về việc mình có khả năng xin cho các đối tượng vào học tại các Học viện, Nhà trường trong Quân đội và xin việc làm, chuyển công tác. Do đó, từ tháng 4-2011 đến 01-2012 Doãn đã trực tiếp nhận 14 hồ sơ và 1.070.000.000 đồng của những người bị hại.
03/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1524
- 56
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Theo đơn khởi kiện ngày 30-10-2009 và trong quá trình tố tụng, ông Lâm Thành Gia và bà Nguyễn Thị Hồng Thắm, là đại diện theo ủy quyền của ông Gia trình bày: Ngày 15-3-2006, ông Phạm Hồng Thanh và bà Nguyễn Thị Lập ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ông Gia toàn bộ nhà, đất tại số 21 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000 lượng vàng SJC. Sau khi ký kết hợp đồng, ông Gia đã trả cho ông Thanh, bà Lập 100 lượng vàng SJC, 500.000.000đ (tương đương với 44,24 lượng vàng SJC) và2.000 USD, việc giao nhận vàng có chữ ký của ông Thanh. Ông Thanh, bà Lập đã sử dụng số tiền này để nộp tiền mua căn nhà số 21 Phùng Khắc Khoan của nhà nước theo Nghị định số 61/CP. Sau đó, ông Thanh, bà Lập đã không tiếp tục thực hiện hợp đồng bán nhà cho ông Gia.
83/2013/DS-GĐT: Tranh chấp thừa kế Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1175
- 25
Tài sản của các cố để lại là nhà đất tại 16 đường Hùng Vương (số cũ là 14, hiện do cụ Bé cùng các con cụ Đính quản lý, sử dụng) và nhà đất 40 (số cũ là 14) đường Nguyễn Tri Phương, thành phố Huế (do cụ Phú quản lý, sử dụng). Nhà, đất nêu trên có giấy tờ chứng nhận do chế độ cũ cấp. Các cố chết không để lại di chúc. Các nguyên đơn yêu cầu được chia thừa kề tài sản của các cố để lại làm 05 phần, trong đó các con của cụ Quế, cụ Dung, cụ Thảo, cụ Đính mỗi thừa kế một kỷ phần, còn cụ Phú và cụ Hảo 01 kỷ phần.
54/2013/KDTM-ST: Tranh chấp tiền bảo hành công trình Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 1804
- 37
Tranh chấp tiền bảo hành công trình
Các bên thỏa thuận cơ quan giải quyết tranh chấp là: “tại trung tâm trọng tài thương mại Thành phố HCM” và “trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam”. Điều khoản này không rõ ràng để chọn Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam để giải quyết tranh chấp.” Nay, nguyên đơn khẳng định không đồng ý thỏa thuận lại điều khoản giải quyết tranh chấp. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu đình chỉ vụ án với lý do không thuộc thẩm quyền giải quyết như bị đơn trình bày.
25/2015/KDTM-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tín dụng Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 2619
- 227
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 28/7/2011 của NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Land và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thì thấy: NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Land (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) cho BĐ_Công ty TNHH rượu Minh An (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty rượu Minh An) vay tiền theo 04 hợp đồng tín dụng, gồm: Hợp đồng tín dụng trung - dài hạn số 173/2005/HĐTD-TDH-DN ngày 09/9/2005; số 50/2006/HĐTD-TDH-DN ngày 01 /3/2006; số 250/2006/HĐTDDA-DN ngày 30/11/2006 và số 07/2007/HĐTDDA-DN ngày 08/01/2007 . Ngân hàng đã giải ngân cho BĐ_Công ty rượu Minh An vay theo bốn hợp đồng tín dụng nêu trên với tổng số tiền là 91.997.696.573 đồng; mục đích sử dụng tiền vay: đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất cồn, gas, rượu, phân vi sinh tại thôn Mặc Hàn, xã SH, huyện SH, tỉnh PY.