702/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 302
- 6
Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 15/12/2013, bà NĐ_Nguyễn Thị Linh có cho bà BĐ_Thái Ngọc Chi vay số tiền 37.000.000 đồng, lãi suất 2%/tháng, thời hạn vay 01 năm. Từ khi vay cho đến nay, bà BĐ_Chi chưa trả tiền lãi, do vi phạm thỏa thuận vay tiền nên bà NĐ_Linh khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Chi cho bà số tiền nợ là 37.000.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật và không yêu cầu tính lãi từ ngày cho vay tới ngày xét xử. Ngày 15/01/2014, bà NĐ_Nguyễn Thị Linh có cho bà BĐ_Vy Thị Ngọc Hạnh vay số tiền 106.000.000 đồng theo giấy thỏa thuận mượn tiền ngày 15/01/2014, không quy định lãi suất, không quy định thời hạn vay. Nay bà NĐ_Linh khởi kiện yêu cầu bà BĐ_Hạnh trả số tiền nợ 106.000.000 đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
701/2015/DSPT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 593
- 8
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ngày 18/01/2013 bà BĐ_Nguyễn Khánh Vy và ông NĐ_Đặng Quốc Hiếu có ký hợp đồng đặt cọc hứa mua hứa bán nhà tại địa chỉ 3A-335 GVM, Phường AP, Quận T với giá là 3.500.000.000 đồng (Ba tỷ năm trăm triệu đồng); phương thức thanh toán ông NĐ_Hiếu đặt cọc 3.000.000.000 đồng vào ngày 18/01/2013; số tiền còn lại là 500.000.000 đồng sẽ thanh toán khi ký hợp đồng mua bán; trong hợp đồng thể hiện ông NĐ_Hiếu sẽ cho bà BĐ_Vy chuộc lại nhà trong thời hạn là 06 tháng, hạn cuối là ngày 18/7/2013; ngày 22/01/2013 ông NĐ_Hiếu và bà BĐ_Vy ký hợp đồng mua bán nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở tại công chứng, nội dung Hợp đồng mua bán căn nhà số 3A-335 GVM, Phường AP Quận T với giá là 3.500.000.000 đồng (Ba tỷ năm trăm triệu đồng), thời hạn giao nhà là ngày 18/7/2013; ngày 14/01/2014 ông NĐ_Hiếu nộp thuế trước bạ căn nhà nêu trên, ngày 07/3/2014 Ủy ban nhân dân Quận T đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BR 364455 cho ông NĐ_Đặng Quốc Hiếu và bà LQ_Nguyễn Thị Thu Hoa.
671/2015/DSPT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 616
- 12
Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Nguyên đơn bà NĐ_Lê Thị Hữu có đại diện ủy quyền là ông Nguyễn Tấn Thành trình bày: Bà NĐ_Lê Thị Hữu trước đây là Việt kiều Anh, sau đó bà có nguyện vọng hồi hương trở về Việt Nam để sinh sống. Năm 2001, bà NĐ_Hữu có nhờ người cậu họ của bà tên là Nguyễn Bình Đẳng mua dùm một lô đất thổ cư tọa lạc tại Phường 12, quận GV, có diện tích 128 m2, thửa số 1376, tờ bản đồ số 01, với giá 192.000.000 đồng. Năm 2005, em ruột bà NĐ_Hữu là bà BĐ_Lê Thị Thiện và chồng bà BĐ_Thiện là ông BĐ_Lê Văn Thành cùng nói với bà NĐ_Hữu rằng do ông Đẳng bị bệnh tim, sức khỏe không tốt nên đề nghị bà NĐ_Hữu nên sang tên lại để hai vợ chồng bà BĐ_Thiện, ông BĐ_Thành đứng tên dùm lô đất này.
650/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2396
- 11
Nguyên đơn là NĐ_Ngân hàng thương mại cổ phần Mỹ Linh có người đại diện theo ủy quyền là ông Trần Văn Thăng trình bày: Ngân hàng và ông BĐ_Trần Quang Mến, bà BĐ_Trần Thị My có ký hợp đồng tín dụng với nội dung: Số tiền giải ngân là 1.800.000.000 đồng (một tỷ tám trăm triệu đồng); mục đích vay là mua nhà; thời hạn vay 240 tháng, kể từ ngày 27/4/2010 đến ngày 27/4/2030; lãi suất linh hoạt; tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số 37/258 QT, Phường 12, quận GV. Tuy nhiên, ông BĐ_Trần Quang Mến và bà BĐ_Trần Thị My đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo đúng cam kết. Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở ông BĐ_Mến và bà BĐ_My thực hiện nghĩa vụ trả nợ và bàn giao tài sản để ngân hàng xử lý thu hồi nợ nhưng ông bà vẫn không thực hiện.
675/2016/DS-PT: Tranh chấp thừa kế Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 667
- 49
Trong quá trình chung sống ông Bèn và bà Chính tạo lập được căn nhà có diện tích 114,7m2 tọa lạc tại số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM (nhà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở). Ông Bèn chết năm 1982 không để lại di chúc, tính đến thời điểm bà NĐ_Loan có đơn khởi kiện đã hết thời hiệu khởi kiện nên phần di sản của ông Bèn để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM được các đồng thừa kế của ông Bèn thỏa thuận là tài sản chung tại biên bản thỏa thuận ngày 07/12/2008. Đối với phần di sản của bà Chính để lại là ½ căn nhà số 61/3 ấp XTĐ 1, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố HCM, phía bị đơn cung cấp di chúc thì bà NĐ_Loan đề nghị Tòa án xem xét tính hợp pháp của di chúc để phân xử theo quy định của pháp luật. Nay bà NĐ_Loan khởi kiện yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế của bà Chính và tài sản chung của các đồng thừa kế (phần di sản của ông Bèn đã được các đồng thừa kế thỏa thuận) là giá trị nhà, đất nêu trên theo quy định của pháp luật.