cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

105/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 492
  • 12

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

28-04-2008
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn anh NĐ_Trường Văn Hà trình bày: Năm 1993 anh trai anh là Trần Trấn Thông có sang nhượng của ông BĐ_Học bà BĐ_Linh diện tích đất là 2.300m2 tại ấp đồngxã PT giá 4.000.000đồngghi giấy sang nhượng để tên anh và anh cũng có mặt nhận ranh đất, chỉ ghi diện tích theo sổ thuế chứ không đo đạc cụ thể và ông BĐ_Học bà BĐ_Linh kê khai nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Sau khi sang nhượng anh Thông cho anh diện tích đất trên nhưng do anh ở xa không đến canh tác mà nhờ ông BĐ_Học trông coi hộ. Năm 2004, ông BĐ_Học báo cho anh biết phía chị Diệu và anh LQ_Hồng lấn ranh, anh có đến xã PT khiếu nại nhưng chưa được giải quyết


118/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1607
  • 38

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

23-04-2008
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Linh trình bày: vào năm 1989-1990 ông có chuyển nhượng cho ông BĐ_Mã 3 công đất ruộng tầm, tọa lạc tại ấp TA 1, xã TT, huyện TH, tỉnh KG 3 công X 2 chỉ vàng 24k = 6 chỉ vàng 24k. Năm 1990 ông chuyển nhượng thêm 4,5 công tầm 3m với giá 18 chi vàng 24k (4,5 X 4 chỉ vàng = 24k). Khi chuyển nhượng không có làm giấy tờ gì nhưng ông có hứa khi nào ông BĐ_Mã trả nợ cho ông, ông sè cho chuộc lại 02 công ở sau hè nhà gần đất thổ cư trong 4,5 công (phần này có làm giấy thỏa thuận cho chuộc lại đất). Sau khi chuyến nhượng thì ông canh tác từ năm 1989-1990 đến năm 2003-2004 thì ông cho anh Nguyễn Văn Trường thuê 19,5 công đất, trong đó có 7,5 công ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã, ông cho thuê với giá 1 công = 20 giạ lúa/năm. Đến năm 2005 thì ông BĐ_Mã vào canh tác phần đất 4,5 công tầm 03m đến nay là 2 năm. Phần đất 7,5 công hiện nay ông BĐ_Mã đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất. Phần này năm trong 03 thửa, ông không xác định thửa nhưng ông xác định Phòng tài nguyên môi trường huyện TH đo đạc ngày 12-7-2007 là đúng vị trí đất ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã.


162/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 585
  • 11

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

22-04-2008
TAND cấp tỉnh

Trong đơn khởi kiện ngày 25-10-2006, ông NĐ_Nguyễn Văn Hân trình bày: Năm 2004 ông có chuyển nhượng 3,5 ha đất cho anh BĐ_Huỳnh Văn Định, giá tiền là 260.000.000đ, ông BĐ_Định trả trước 179.000.000đ, còn lại 81.000.000đ, do đất đang cầm cố cho người khác nên ông BĐ_Định thỏa thuận chuyển đổi thành 90 chỉ vàng 24k và đến năm 2006 trả hoàn tất rồi ông NĐ_Hân giao đất, khu vực đất chuyển nhượng tại ấp GP, xã HĐ B, do LQ_Nguyễn Thanh Môn đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, ông BĐ_Định và ông LQ_Huỳnh Thanh Xá là con rể của ông LQ_Nguyễn Thanh Môn đi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ông BĐ_Định được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 30.048m2 đất, gồm các thửa 194, 191, 188, 186, 185, 187, 183, 184, 189, 145 và 143 thuộc tờ bản đồ số 6, đến nay ông BĐ_Định chưa trả 90 chi vàng 24k nhưng sử dụng toàn bộ diện ích của ông là 3,7ha từ năm 2005, trong đó có các thửa 147, 198 và một phần thửa 141, một phần lửa 139 và một phần thửa 182, tờ bản đồ số 6. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Định phải trả 90 chỉ vàng 24k và 2.122m2, tại thửa 194, 198.


110/2008/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1765
  • 45

Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

21-04-2008
TAND cấp tỉnh

Ông NĐ_Phan Trung Thành trình bày: Vào năm 2000 ông BĐ_Tranh vay của ông 5.000.000 đồng và năm 2001 ông BĐ_Tranh vay thêm 10 chỉ vàng 24k, tiền 10.000.000 đồng, lãi sụất thỏa thuận là 50%/năm, thời hạn vay là 12 tháng, nhưng ông BĐ_Tranh không trả vốn vay và lãi suất cho ông. Đến tháng 1-2002, ông BĐ_Tranh kêu bán 11 công đất lúa tầm 3 mét, giá 12,5 chỉ/công bằng 137,5 chỉ vàng 24k; trừ nợ vay 60 chỉ, ông trả cho ông BĐ_Tranh 77,5 chỉ. ồng và ông BĐ_Tranh có làm giấy tay và ông cho ông BĐ_Tranh thuê lại 200 giạ lúa/năm/11 công; ông BĐ_Tranh đã thuê đến năm 2005 là 3 năm nhưng ông BĐ_Tranh không trả lúa thuê cho ông. Từ đó ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi Tòa án hòa giải thì ông BĐ_Tranh thống nhất trả cho 160 chỉ vàng 24k. Năm 2006 ông BĐ_Tranh thống nhất giao cho ông 16.848,9m2 đất lúa để trừ 160 chỉ vàng 24k. Sau đó ông cho con tên là LQ_Phan Ngọc Minh đứng tên, ngày 21-4-2006 ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho LQ_Phan Ngọc Minh và vợ là LQ_Nguyễn Thị Niên; LQ_Minh cho LQ_Văn Thanh Vĩnh thuê hàng năm. Nay ông yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và ông BĐ_Tranh và yêu cầu được tiếp tục canh tác 16.848,9m2 đất lúa mà ông BĐ_Tranh đã giao cho ông.


193/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2012
  • 44

Tranh chấp quyền sử dụng đất

18-04-2008
TAND cấp tỉnh

Bà NĐ_Trương Thị Linh và ông NĐ_Lê Văn Ên trình bày: nguồn gốc phần đất vợ chồng bà đang quản lý sử dụng là do vợ chồng bà mua lại từ năm 1990, trên đất có 1 căn nhà bằng cây. Đến ngày 6-4- 2006, Ủy ban nhân dân huyện AP cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0084/Q1 cho vợ chồng bà với diện tích 80,9m2. Cũng trong năm 2006, bà cất lại nhà cấp 4 bằng bêtông kiên cố, còn nhà đất của ông BĐ_Chân, bà BĐ_Son có trước khi bà tới đây sinh sống, giáp ranh liền kề với nhà đất của bà, giữa hai ranh đất có 1 cây dừa. Vào năm 2005, vợ chồng ông BĐ_Chân, bà BĐ_Son có hỏi bà đốn cây dừa để xây dựng nhà thành nhà một trệt, một lầu (phần lầu băng cây). Sau khi xây dựng nhà xong, thì vợ chồng ông BĐ_Chân tiếp tục lắp đặt 1 giàn phơi quần áo và 1 giàn nóng của máy lạnh, khi đó bà có ngăn cản nhưng ông BĐ_Chân vẫn tiếp tục xây dựng, chính vì vậy đã chiếm khoảng không gian nằm trên đất của vợ chồng bà đã được cấp giấy đỏ, làm cho bà không thể sử dụng khoảng không bên trên.