20/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 479
- 10
Năm 1981, cụ Trí và cụ Mảnh mua khoảng 3.000m2 đất tại 128/32 đường NH. Năm 1991, vợ chồng bà Nga xuất cảnh; còn ông Liêm ở nhà 158/22. Ngày 15/6/1995 cụ Trí chết, không để lại di chúc. San đó, cụ Mảnh bán cho bà NĐ_Hữu (con cụ NĐ_Linh, cụ Trí) căn nhà 158/32, giá 6 lượng vàng để chi dùng riêng, rồi chuyển về ở tại nhà 158/22 (trong nhà này có một số vật dụng); cụ Mảnh cho cháu là bà BĐ_Võ Thị Nga đến nhà này ở cùng với cụ; ông Liêm chuyển đi ở nơi khác. Cụ Mảnh không biết chữ. Năm 1997 cụ Mảnh chết. Từ đó, bà BĐ_Nga chiếm giữ luôn căn nhà 158/22.
18/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 472
- 13
Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/3/2005 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là bà NĐ_Nguyễn Thị Bình trình bày: Ngày 10/7/1999, bà được ủy ban nhân dân huyện CT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 1.404m2 đất vườn gồm 2 thửa: thửa 2468 diện tích 594m2 và thửa 2328 diện tích 810m2. Thửa đất có diện tích 810m2 do ông BĐ_Thanh nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Bình, bà Phụng từ năm 1995. Sau đó ông BĐ_Thanh đã chuyển nhượng lại cho bà với giá 15 chỉ vàng 24k. Thửa đất có diện tích 594m2 do bà trực tiếp mua của vợ chồng ông Bình, bà Phụng vào năm 1998 với giá 16 chỉ vàng 24k. Nay vợ chồng ông BĐ_Thanh cho rằng có sự hoàn đổi đất giữa bà và ông BĐ_Thanh nên đã chiếm đoạt 810m2 đất của bà.
17/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 627
- 12
Bà NĐ_Ca được mẹ là cụ Nguyễn Thị Mỹ uỷ quyền khởi kiện đòi lại toàn bộ diện tích 20 công đất mỹ hiện nay ông BĐ_Dương Văn Thông đang quản lý, sử dụng. Nguồn gốc đất do cụ Mỹ sử dựng từ năm 1945 . Năm 1978 ông Võ Văn Mười (em ruột của bà NĐ_Ca) chém ông BĐ_Thông đứt cánh tay, gia đình bà NĐ_Ca đã bồi thường tiền thuốc, nhưng năm 1979 ông BĐ_Thông đe doạ nên cụ Mỹ và ông Mười bỏ đi nơi khác sinh sống. Toàn bộ diện tích đất nêu trên cho ông LQ_Nguyễn Hữu Bảo thuê sử dụng. Bị ông BĐ_Thông đe doạ, năm 1983 ông LQ_Bảo trả lại đất cho gia đình bà thì ông BĐ_Thông chiếm đất sử dụng, năm 2000 bà NĐ_Ca yêu cầu ông BĐ_Thông trả lại đất của cụ Mỹ, nhưng ông BĐ_Thông không trả nên bà khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Thông trả lại 20 công đất.
14/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1538
- 48
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
Ông NĐ_Lê Văn Ngọc Thạch kết hôn với bà BĐ_Võ Thị Kim Linh năm 1980, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Năm 1996, ông NĐ_Thạch, bà BĐ_Linh thuận tình ly hôn, tại Quyết định số 81/QĐTTLH ngày 04/11/1996, Toà án nhân dân thành phố BMT, tỉnh ĐL đã công nhận sự thỏa thuận của ông NĐ_Thạch, bà BĐ_Linh về việc thuận tình ly hôn, xác định nghĩa vụ nuôi con chung và phân chia tài sản chung. Tuy nhiên, do ông NĐ_Thạch, bà BĐ_Linh chỉ thỏa thuận về chia tải sản chung mà không thỏa thuận về trách nhiệm trả các khoản nợ, nên tại Quyết định số 03/QĐKN-LH ngày 16/5/1998, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh ĐL đã kháng nghị phần chia tài sản chung của Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 04/GĐT-LH ngày 24/6/1998, Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh ĐL hủy phần chia tài sản chung của Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố BMT giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm về phần tài sản.
13/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1675
- 35
Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
Chị Phạm Thị Mỹ Hạnh và anh Vũ Văn Xuân trước đây là vợ chồng. Hai người có 03 con chung, con lớn sinh năm: 1993, nhỏ nhất sinh năm: 1999. Năm 2003 chị Hạnh yêu cầu ly hôn. Tại bản án phúc thẩm số 11-HNGĐ-PT ngày 21/06/2004. Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT đã giải quyết trong quan hệ hôn nhân và con chung. Riêng về tài sản chung, nợ chung mặc dù Tòa án nhân dân huyện CĐ đã giải quyết sơ thẩm 02 lần (bản án sơ thẩm số 20/HNGĐ-ST ngày 21/04/2004 và bản án sơ thẩm số 16/2006/HNGĐ-ST ngày 16/01/2006) nhưng đều bị hai bản án phúc thẩm số 11/HNGĐ-PT ngày 21/06/2004 và bản án phúc thẩm số 51/DSPT ngày 06/04/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT xử hủy về phần chia tài sản để giải quyết lại sơ thẩm với lý do: Bản án sơ thẩm chưa đề cập xem xét giải quyết đầy đủ các yêu cầu của các đương sự, vi phạm các Điều 5, 58, 60, 61 và 238 Bộ luật tố tụng dân sự.