18/2010/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2335
- 46
Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
Do quen biết bà Nguyễn Thị Thanh Thảo là con dâu bà BĐ_Đỗ Thị Chi nên bà biết căn nhà số 67 MVV, phường TQ, Quận X đang có nhu cầu bán và đang làm thủ tục để được cấp GCNQSHNƠ và QSDĐ. Ngày 14/01/2008 bà ký hợp đồng đặt cọc mua một phần nhà đất số 67 MVV, phường TQ, Quận X với các đồng thừa kế của ông Trần Đình Đức là bà BĐ_Đỗ Thị Chi, bà BĐ_Trần Thị Bích Linh, bà BĐ_Trần Thị Phúc, bà BĐ_Trần Thị Bích Hân, ông BĐ_Trần Đình Ba, ông BĐ_Trần Đình Hữu, bà BĐ_Trần Thị Lưu. Ngay khi ký hợp đồng bà đã thanh toán cho bên bán 700.000.000đ (bảy trăm triệu đồng) có ghi biên nhận và tại thời Điểm ký căn nhà chưa có giấy tờ hợp lệ do đó bên bán cam kết hoàn tất thủ tục trong vòng 04 tháng để hai bên tiến hành mua bán tại phòng công chứng.
51/2010/ST-HNGĐ Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 861
- 38
Tranh chấp về quyền nuôi con sau ly hôn
Trong đơn khởi kiện ngày 02/03/2010 của nguyên đơn ông Đoàn Nguyên Khoa cùng lời trình bày của ông Khoa thì ông và bà Phạm Thị Hồng Ngọc đã ly hôn theo bản án số 18/2009/ST- HNGĐ ngày 20/03/2009 của Tòa án nhân dân quận TB, về phần con chung, bà Ngọc được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ Đoàn Bội Như Quỳnh, sinh ngày: 26/03/2001. Quá trình nuôi trẻ Như Quỳnh, bà Ngọc thường xuyên khóa trái cửa, trẻ Quỳnh ăn uống thất thường, có khi bị bỏ đói, bà Ngọc thường hay chửi bới, đánh đập không lý do, những nhu cầu của con đều không được bà Ngọc đáp ứng và còn cản trở trong việc ông đến thăm con. Nay ông yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Quỳnh, không yêu cầu bà Ngọc cấp dưỡng nuôi con.
18/2010/HNGĐ-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 450
- 10
Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2009 và các tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Hà Văn Dũng trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Ry kết hôn vào tháng 11/1999, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Yên Đỗ, TP. PK, GL, hôn nhân giữa anh và chị Ry là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Trong cuộc sống chung anh chị không có hạnh phúc vì chị Ry đối xử không tốt với gia đình chồng, cụ thể là hỗn láo với cha mẹ chồng, anh đã góp ý với chị Ry nhiều lần nhưng chị Ry không nghe lại có thái độ cãi lại chồng. Do đó vì tức giận anh có đánh chị Ry một vài lần, bản thân chị Ry cũng đánh lại anh. Thời gian sau này mâu thuẫn giữa anh và chị Ry càng trầm trọng hơn vì chị Ry không thay đổi cách xử sự với gia đình chồng. Vì vậy anh và chị Ry đã sống ly thân với nhau từ tháng 6/2009 cho đến nay.
108/2012/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 512
- 13
Ngày 20/11/2008 NĐ_Quỹ tín dụng nhân dân An Khang và vợ chồng ông BĐ_Trần Trung Thịnh, bà BĐ_K’Less có ký hợp đồng tín dụng số 1505/M/HĐTD, theo hợp đồng thì NĐ_Quỹ tín dụng nhân dân An Khang cho vợ chồng ông BĐ_Thịnh, bà BĐ_K’Less vay 420.000.000 đồng, thời hạn cho vay 12 tháng từ ngày 20/11/2008 đến ngày 20/11/2009, lãi suất 1,5%/tháng, lãi suất quá hạn là 2,25%/tháng, hình thức trả lãi 6 tháng, mục đích vay kinh doanh. Khi vợ chồng ông BĐ_Thịnh, bà BĐ_K’Less vay thì vợ chồng ông K’Dao, bà LQ_K’Gring (cha mẹ bà BĐ_K’Less) có thế chấp tài sản của ông bà cho NĐ_Quỹ tín dụng nhân dân An Khang 1.205m2 đất thuộc thửa 1771, thửa 364 đến 377, tờ bản đồ số 01, 02 tọa lạc tại xã HT, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 699254 do Ủy ban nhân dân huyện ĐT cấp ngày 21/12/1998 mang tên hộ ông LQ_K’Sao để cho vợ chồng ông BĐ_Thịnh, bà BĐ_K’Less vay.
09/2012/ DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1902
- 19
Tranh chấp hợp đồng mua bán thức ăn gia súc
Vào ngày 09 tháng 7 năm 2007 ông BĐ_Trần Văn Ninh và BĐ_Phạm Thị Hồng Thủy có mua thức ăn gia súc của bà theo hợp đồng miệng đến xuất chuồng trả đủ, bà giao thức ăn nhiều lần cho ông BĐ_Ninh. Đến ngày 13 tháng 11 năm 2007 thì tổng cộng tiền nợ thức ăn gia súc ông BĐ_Ninh, bà BĐ_Thủy thiếu là 22.635.000 đồng. Sau đó ông BĐ_Ninh có trả nợ cho bà nhiều lần cụ thể như sau: Ngày 13 tháng 11 năm 2008 ông BĐ_Ninh trả được 4.000.000 đồng và ông BĐ_Ninh có làm giấy nhận nợ còn lại là 18.635.000 đồng. Ngày 15 tháng 12 năm 2008 ông BĐ_Ninh tiếp tục trả 3.000.000đơng, còn nợ lại 15.635.000 đồng. Ngày 15 tháng 4 năm 2009 ông BĐ_Ninh tiếp tục trả 6.500.000 đồng, còn lại 9.135.000 đồng.