cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

23/2014/LĐST Sơ thẩm Lao động

  • 2952
  • 91

Tranh chấp về tiền lương

16-09-2014
TAND cấp huyện

Khi ông NĐ_Morten có Thư từ chức, đại diện BĐ_Công ty TNHH sản xuất thương mại công nghệ nhựa Tân An có thỏa thuận với ông bằng một văn bản “Thư từ chức” ngày 31.01.2013, xác nhận tiền lương Công ty còn nợ ông đến thời điểm này là 32.000 USD và cam kết sẽ thanh toán những phần lương trên nhưng thực tế đến ngày 28/2/2013, Công ty chỉ chuyển cho ông số tiền tương đương 3.000 USD nên số tiền lương Công ty còn nợ là 29.000 USD, trong đó bao gồm: 6.000 USD lương của tháng 1/2013, 6.000 USD lương tháng 2/2013 và 16.000 USD lương (Của 16 tháng, từ lúc bắt đầu làm việc cho đến khi nghỉ việc). Sau khi hai bên ký kết văn bản, BĐ_Công ty TNHH sản xuất thương mại công nghệ nhựa Tân An không thanh toán các Khoản lương còn nợ với lý do không chính đáng. Do đó, ông NĐ_Morten yêu cầu Tòa án giải quyết buộc: BĐ_Công ty TNHH sản xuất thương mại công nghệ nhựa Tân An thanh toán ngay cho ông số tiền lương còn nợ là 29.000 USD quy đổi ra tiền đồng Việt Nam tại thời điểm xét xử và trả lãi theo quy định pháp luật do vi phạm thỏa thuận thanh toán tính từ ngày 2/03/2013 cho đến ngày Tòa xét xử là 18 tháng.


03/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1527
  • 51

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

26-10-2012
TAND cấp huyện

Năm 1989, bà được Ủy ban nhân dân (UBND) thị xã PL (nay là thành phố PL) giao cho một lô đất trồng cây công nghiệp tại lô số 36 ở Làng Ngol – phường TB với diện tích 1200m2 theo Quyết định số 167/QĐ-UB ngày 11/05/1989. Sau khi được giao đất, bà cùng với ông Trần Đức Quang (Nay là chồng bà) tiến hành trồng cây cà phê trên diện tích đất trên, đến năm 1990 bà bận công tác xa nên giao lại cho hai anh em trai bà là ông Đào Ngọc Hoàng và ông đào Ngọc Chuyền trông nôm, chăm sóc cà phê trên đất cho đến cuối năm 1995 thì không sử dụng đất nữa vì lý do bà bận công tác xa, còn hai anh em bà bận học nghề. Khoảng cuối năm 1996 bà phát hiện ông LQ_Nguyễn Ngọc Điện và bà LQ_Trần Thị Vẻ xây dựng nhà lấn sang phần đất của bà, bà đã làm đơn khiếu nại gửi đến UBND phường TB nhưng không được giải quyết. Đến năm 2007, bà tiếp tục có đơn khiếu nại và lúc này mới được UBND phường TB giải quyết. Do UBND phường TB giải quyết và BĐ_UBND thành phố PL có công trả lời không thỏa đáng nên bà có đơn khởi kiện ra Tòa.


01/2012/HC-ST Sơ thẩm Hành chính

  • 1785
  • 39

Khiếu kiện hành vi hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

06-12-2012
TAND cấp huyện

Ngày 09 tháng 03 năm 2011, bà NĐ_Nguyễn Thị Ngọc Linh khiếu nại việc BĐ_UBND huyện DK cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên và đã được BĐ_UBND huyện DK giải quyết bằng Công văn số 1654/UBND ngày 12/08/2011 trả lời cho bà NĐ_Linh với nội dung khiếu nại của bà có cơ sở để xem xét. Không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại của BĐ_UBND huyện DK, ngày 04/10/2011, bà NĐ_Linh có đơn khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01202/QSDĐ/SH-DK mang tên ông LQ_Nguyễn Ngọc Tùng, bà LQ_Nguyễn Thị Ngọc Châu.


23/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1636
  • 20

Tranh chấp hợp đồng mua bán xe ô tô

10-07-2010

NĐ_Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại AKC (sau đây gọi tắt là NĐ_Công ty AKC) là đại lý ủy quyền kinh doanh xe ô tô Mitsubishi của LQ_Công ty Liên doanh Sản xuất ô tô Ánh Kim VCM (sau đây gọi tắt là LQ_Công ty VCM), theo hợp đồng đại lý bán xe số 0411/03/SM/VSM ngày 01/4/2003. Tại đơn khởi kiện đề ngày 27/11/2003 và các lời khai tại Toà án trong quá trình giải quyết vụ án, NĐ_Công ty AKC trỡnh bày: Ngày 29/9/2003 bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc An thỏa thuận với NĐ_Công ty AKC mua một chiếc xe ôtô 7 chỗ ngồi hiệu Mitsubishi Pajerox (mới 100%, màu sơn A37) với giá đã gồm thuế là 544.215.000 đồng (tương đương 35.000USD). Bà BĐ_An yêu cầu nâng cấp xe với chi phí do bà BĐ_An chịu là 1800 USD và NĐ_Công ty AKC hỗ trợ 2.900 USD.


23/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 505
  • 9

Ly hôn

06-05-2010

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 18/5/2007 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông NĐ_Trần Hải trình bày: Ông và bà BĐ_Huyền đăng ký kết hôn ngày 15/11/2000. Trước khi kết hôn với nhau, ông NĐ_Hải và bà BĐ_Huyền đều đã có vợ, chồng và có con riêng, nhưng đã ly hôn. Sau kết hôn, ông và bà ở với nhau rất ít, bà BĐ_Huyền thường xuyên về ở tại HP để chăm sóc cho mẹ và con của bà BĐ_Huyền. Đến năm 2001, thì phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp, nên không thể ở với nhau được. Nay ông làm đơn xin ly hôn.