74/2013/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
- 921
- 12
Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Nguyên đơn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao quyền sử dụng đất diện tích 80.852.2m2 tại địa chỉ 621 PVC Phường 7 Quận X (gọi tắt là số 621) theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T00292, T00293, T00294, T00295 do Ủy ban nhân dân Thành phố HCM cấp ngày 30/5/2006, có thời hạn sử dụng đến ngày 31/12/2006. Từ năm 2001, nguyên đơn hợp đồng cho bị đơn thuê mặt bằng, kho bãi. Sau đó, hai bên đã ký biên bản thanh lý sau cùng vào ngày 25/6/2007 với nội dung tính đến ngày 31/5/2007 bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền thuê kho là 326.761.400 đồng. Bị đơn đã thanh toán được 20.000.000 đồng vào ngày 05/01/2008 thì ngưng. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán ngay số tiền còn thiếu là 306.761.400 đồng và tiền lãi chậm thanh toán từ ngày 01/6/2007 đến khi xét xử.
80/2014/LĐ-ST: Tranh chấp về kỷ luật lao động Sơ thẩm Lao động
- 2655
- 83
Tranh chấp về kỷ luật lao động
Theo đơn khởi kiện ngày 21/6/2013, Đơn yêu cầu thay đổi nội dung đơn khởi kiện ngày 04/9/2013 và tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn ông NĐ_Lê Hoàng Thanh trình bày: Ông NĐ_Lê Hoàng Thanh vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH sản xuất hàng tiêu dùng Bảo Anh (BĐ_Công ty BiAits) từ tháng 7/2006. Thời gian đầu Công ty ký Hợp đồng lao động có thời hạn với ông NĐ_Thanh (hai lần). Ngày 01/01/2008 Công ty ký hợp đồng lao động không thời hạn với ông NĐ_Thanh. Công việc của ông NĐ_Thanh là nhân viên kinh doanh sỉ. Tháng 11/2008, ông NĐ_Thanh được thay đổi công việc từ nhân viên kinh doanh sỉ sang làm nhiệm vụ Phó quản trị kho về công tác xuất hàng. Lương trong hợp đồng lao động của ông NĐ_Thanh là 585.000đ. Lương theo thỏa thuận là 4.500.000đ trong đó có 200.000đồng là phụ cấp trách nhiệm. Thực tế mỗi tháng ông NĐ_Thanh nhận lương theo doanh thu.
82/2014/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động) Sơ thẩm Lao động
- 1882
- 62
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai do ông Vũ Hoàng Nam, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 21/6/2001 Chi nhánh Công ty Quốc tế TNHH Đông Tài Việt Nam có ký Hợp đồng lao động với ông NĐ_Lê Thanh Tân, thời hạn 1 năm, từ01/8/2001 đến 01/6/2002 với công việc là nhân viên thiết kế, tiền lương 3.000.000 đồng/tháng. Ông NĐ_Tân tiếp tục làm việc đến ngày 15/3/2005 thì Chủ tịch Tập đoàn New Vest Group có quyết định Điều chuyển số 016/QĐ-05 nội dung Điều chuyển ông NĐ_Lê Thanh Tân, là nhân viên thiết kế tại Chi nhánh Công ty Quốc tế TNHH Đông Tài Việt Nam tại thành phố HCM, Thành viên của New Vest Group về làm việc tại BĐ_Văn phòng đại diện New Vest Group, thành phố HCM từ ngày 01/4/2005 cũng với công việc là nhân viên thiết kế.
1443/2015/HNPT: Ly hôn Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 487
- 31
Ông NĐ_Ngân và bà BĐ_Chi chung sống với nhau từ tháng 11/2000, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BĐ, huyện HM, Tp. HCM theo giấy chứng nhận kết hôn số 260, quyển số 01/2010 ký ngày 01/10/2010. Sau khi đám cưới khoảng 3 tháng thì vợ chồng thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã nguyên nhân là do bà BĐ_Chi có thái độ hỗn xược với cha mẹ chồng, không chăm lo cho chồng, bà BĐ_Chi nhiều lần thưa kiện chính quyền địa phương ví dụ như thưa về việc bố mẹ của ông hành hung bà BĐ_Chi. Bố mẹ ông có qua gặp gia đình bà BĐ_Chi để góp ý về cách cư xử của bà BĐ_Chi đối với gia đình chồng nhưng gia đình của bà BĐ_Chi không giải quyết được. Vợ chồng ly thân từ năm 2012 cho đến nay. Hiện nay ông không còn tình cảm với bà BĐ_Chi nên ông yêu cầu được ly hôn với bà BĐ_Chi.
847/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 528
- 17
Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Nguyên đơn là bà NĐ_Hoàng Thiên Hữu trình bày: Ngày 08/8/2011 bà bán cho bà BĐ_Trần Thị Minh căn nhà số 4 CLV, phường TT, quận TP. Khi ra công chứng giao tiền bà BĐ_Minh giữ lại của bà 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) và hẹn khi giao nhà sẽ giao hết số tiền trên. Hai bên có lập văn bản ghi nhận sự việc bằng giấy cam kết ngày 08/08/2011 và ngày 10/8/2011. Tuy nhiên sau khi nhận nhà phía bà BĐ_Minh vẫn không thanh toán cho bà số tiền trên. Nay, bà yêu cầu tòa án buộc bà BĐ_Minh phải trả cho bà số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) còn thiếu ngay sau khi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật.