174/2006/KDTM-PT Phúc thẩm Kinh doanh thương mại
- 2614
- 55
Tranh chấp hợp đồng liên doanh
Ngày 01/3/2005 NĐ_Hợp tác xã Hồng Hà và BĐ_Công ty cổ phần Phúc Giang ký Hợp đồng số 03/HĐ-CT liên doanh kinh tế với nội dung chính là: NĐ_Hợp tác xã Hồng Hà đồng ý liên doanh với BĐ_Công ty cổ phần Phúc Giang, BĐ_Công ty cổ phần Phúc Giang đồng ý đầu tư liên doanh của NĐ_Hợp tác xã Hồng Hà để chăn nuôi lợn siêu nạc xuất khẩu với hình thức góp vốn, khoán gọn, thu lợi nhuận (lãi suất 0,7%/tháng). BĐ_Công ty cổ phần Phúc Giang phải thanh toán lãi cho NĐ_Hợp tác xã Hồng Hà vào ngày cuối tháng hoặc cuối quý. NĐ_Hợp tác xã Hồng Hà chỉ đầu tư lượng tài chính để liên doanh là 500 triệu đồng trong thời gian 5 năm. Hết thời hạn BĐ_Công ty cổ phần Phúc Giang phải thanh toán hết gốc và lãi cho NĐ_Hợp tác xã Hồng Hà. Tài sản BĐ_Công ty cổ phần Phúc Giang làm thế chấp cho NĐ_Hợp tác xã Hồng Hà là hệ thống cây xăng đang hoạt động với trị giá 1,4 tỷ đồng.
134/2006/KTPT Phúc thẩm Kinh doanh thương mại
- 1131
- 24
Ngày 10/11/2004, NĐ_Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Hoàng (Bên A) và BĐ_Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại Nam Dung (Bên B) ký Hợp đồng kinh tế số 28/HĐKT. Theo hợp đồng Bên B cung cấp vật tư và thi công hoàn thiện hạng mục gồm: trần treo xương chìm, giàn vòm kết cấu thép mica và vòm giàn đèn hoa cho công trình khách sạn. Bên B sẽ thi công theo bản vẽ thiết kế mẫu ảnh do Bên A cung cấp với các vật tư theo mẫu do Bên A duyệt kèm theo bảng giá chi tiết cho hợp đồng. Trị giá hợp đồng theo bảng dự toán đã duyệt là 93.671.200 đồng, trừ đi số triết khấu lấy trị giá thực hiện là 90.000.000 đồng, chưa có thuế giá trị gia tăng 10%.
06/2008/KDTM-GĐT Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
- 1426
- 12
Tranh chấp hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng
Ngày 10/12/2004, hai bên lập biên bản xác nhận công nợ (BL.10) với nội dung: Tổng giá trị 03 hợp đồng là: 3.787.800.000 đồng; Tổng giá trị thực hiện là: 2.936.149.542 đồng; Đã thanh toán: 2.326.891.200 đồng; Còn lại: 609.258.342 đồng. Nay công trình đã đưa vào sử dụng, nhưng BĐ_Công ty XDGTLT vẫn chưa thanh toán số tiền còn nợ nêu trên. Yêu cầu BĐ_Công ty XDGTLT và ông LQ_Trương Hữu Kiên – Giám đốc xí nghiệp xây dựng An Đại phải thanh toán hết số tiền mua vật tư còn nợ trên và tiền lãi của số tiền này tính từ ngày 10/12/2004 (BL.114) theo lãi suất quá hạn của Ngân hàng nhà nước.
59/2012/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1689
- 44
Cụ Tòng, cụ Dân tạo lập được nhà 62 NCT, phường 3, TH, PY từ năm 1957, cụ Tòng chết không để lại di chúc. Ngày 26/4/1994, cụ Dân lập di chúc có xác nhận của ủy ban nhân dân phường 3 cùng ngày, phân chia cho bà hưởng thừa kế phần nhà trước 6m X 6,8m, giao phần nhà sau 6m X 7,8m cho anh LQ_Võ Văn Thân (con ông BĐ_Vân) sở hữu. Di chúc do cụ Dân làm và tự đem đến ủy ban nhân dân phường 3 xác nhận, sau 1 - 2 tháng thì cụ Dân đưa di chúc và giấy tờ về nhà đất cho bà giữ, không đưa cho anh LQ_Thân bản nào. Bà lập gia đình năm 1969, ở chung cùng cụ Dân và ông BĐ_Vân tại nhà đất tranh chấp đền năm 1982 bà mua nhà ở riêng tại nhà đang ở hiện nay. Năm 1975 cụ Dân mua cho bà LQ_Giang nhà 20 PĐP, không cho bà và ông BĐ_Vân tài sản nào. Ông BĐ_Vân ở cùng cụ Dân đến năm 1987 thì cụ Dân ngăn nhà trên ở riêng, ăn riêng, còn ông BĐ_Vân ở nhà dưới. Trước đây do ông BĐ_Vân hỗn láo, đối xử với mẹ không ra gì, mẹ bà đã phải gửi đem ra ủy ban nhân dân phường 3 và ủy ban nhân dân phường 3 đã phải giải quyết 3 lần vào năm 1986. Cụ Dân còn viết nhiều nhật ký về việc vợ chồng ông BĐ_Vân đối xử tệ bạc.
402/2012/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 665
- 12
Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ngày 25/8/2008 bà NĐ_Nguyễn Thị Phi có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tài sản của cha mẹ. Tại Tòa án bà NĐ_Phi trình bày: Khi cha mẹ bà còn sống, đã họp gia đình và quyết định chia cho bà LQ_Miên 411 m2 đất nguyên thổ, trên có nhà, bếp, sân vườn, vì bà LQ_Miên sống cùng cha mẹ từ nhỏ, khi lập gia đình vẫn sống cùng cha mẹ, có công chăm sóc, phụng dưỡng lúc cha mẹ tuổi già, sau khi cha mẹ qua đời, bà LQ_Miên sẽ thay mặt các chị em hương khói cho tổ tiên và cha mẹ. Phần đất còn lại có diện tích 269 m2, cụ Chúc, cụ Hát để lại cho bà BĐ_Phú, bà BĐ_Phụng và bà NĐ_Phi. Cụ Chúc chết năm 1990, không để lại di chúc. Năm 2003, cụ Hát chết. Sau khi cụ Hát chết, bà BĐ_Phú và bà BĐ_Phụng xuất trình bản di chúc, nói là của cụ Hát lập ngày 25/01/1996, được ủy ban nhân dân xã KN chứng thực, có nội dung cụ Hát không cho bà được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất. Theo bà thì bản di chúc trên không phải là của cụ Hát, mà là do bà BĐ_Phú, bà BĐ_Phụng đã giả mạo, nhằm truất quyền thừa kế của bà, chữ ký và chữ viết tên bà trong bản di chúc là không phải chữ ký, chữ viết của bà. Bà đề nghị Tòa án hủy bản di chúc, chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích 269 m2 đất, nay thuộc thửa số 34, tờ bản đồ số 24 vẫn đứng tên chủ sử dụng là cụ Nguyễn Mậu Chúc; riêng diện tích đất cha mẹ bà đã cho bà LQ_Miên, bà LQ_Miên đã kê khai, đăng ký và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2006 thì bà không tranh chấp.