cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
25/2013/QĐ-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 864
  • 9

Yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật

22-04-2013

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/10/2006 và quá trình giải quyết vu kiên, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Vui trình bày: Cụ Trần Quang Tánh và cụ Bùi Thị Lượng có 6 người con là: LQ_Trần Thị Hồng, bà LQ_Trần Thị Soa, ông LQ_Trần Văn Kiên (hiện nay đang cư trú tại Australia), bà Trần Thị Yên, ông Trần Văn Vận và bà NĐ_Trần Thị Vui. Cụ Tánh chết năm 1987, cụ Lương chết năm 1985 đều không LQ_Đức lại di chúc. Bà Yên chết năm 2003, chồng bà Yên là ông Phạm Trọng Nhật chết năm 1947, bà Yên có 2 con là chị Phạm Thị Phận (chị Phận không có chồng, có 1 con là LQ_Phạm Hoàng Tiến) và anh LQ_Phạm Văn Đức.


144/2013/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1149
  • 32

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

04-05-2013
Tòa phúc thẩm TANDTC

Phần đất ở và cây lâu năm diện tích 13.140m2 tọa lạc tại ấp Lê Bát, xã CC, huyện PQ do cụ Hoành (Quành) đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 11/12/1993, có nguồn gốc là do cụ Hoành và cụ Ba khai khẩn. Khi cụ Hoành còn sống, gia đình khó khăn nên cụ thế chấp giấy tờ đất cho bà Đỗ Ngọc Hương vay tiền cùng lãi suất tổng cộng là 40 triệu đồng. Năm 2000 sau khi cụ Hoành chết thì bà có họp gia đình thống nhất bán 1.000m2 đất trong tổng diện tích đất trên để trả nợ, lúc này bà BĐ_Hằng đứng trả nợ cho bà Hương và yêu cầu anh chị em trong gia đình giao giấy đất để cho bà BĐ_Hằng đổi từ giấy xanh sang giấy đỏ cho gia đình. Khi chị em thống nhất cho bà BĐ_Hằng làm chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà BĐ_Hằng tự ý cắt 4.000m2 đất cho bà LQ_Lê Thị Hoa, diện tích còn lại thì bà BĐ_Hằng tự ý chuyển sang tên của bà BĐ_Hằng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bìa đỏ ngày 31/3/2005 mà không được sự thống nhất của các anh chị em.


149/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 327
  • 1

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

25-11-2008
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, bà NĐ_Nguyễn Thị Hảo xác đinh yêu cầu khởi kiện như sau: Bà NĐ_Hảo cho bà BĐ_Trần Tú Linh vay tiền, tổng cộng 3 lần, với tổng số tiền là 110.000.000 (một trăm mười triệu) đồng, cụ thể như sau: Lần một: Ngày 14/01/2008, cho bà BĐ_Linh vay 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng, lãi suất 3% tháng, khi vay có thế chấp chủ quyền nhà đứng tên vợ chồng bà BĐ_Linh và ông LQ_Hùng, hai bên có lập giấy tay do bà LQ_Trần Thị Thu Hương viết và cùng bà BĐ_Linh ký tên, Lãi suất sẽ trả cùng thời điểm trả vốn, thời hạn vay là 4 tháng. Lần hai: Vào ngày 21/02/2008, bà NĐ_Hảo tiếp tục cho bà BĐ_Linh vay thêm 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng, lãi 3% tháng, thời gian vay là 4 tháng, chỉ nói miệng và ghi thêm vào giấy nợ lần một.


04/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 567
  • 6

Tranh chấp quyền sử dụng đất

07-01-2009
TAND cấp tỉnh

Ông Nguyễn Văn Mạnh và bà LQ_Lê Thị Út sống chung với nhau sinh được 07 người con: NĐ_Nguyễn Văn Thi, LQ_Nguyễn Thị Điệp, LQ_Nguyễn Văn Kiên, NĐ_Nguyễn Thị Xanh, NĐ_Nguyễn Văn Tùng, BĐ_Nguyễn Văn Dũng, NĐ_Nguyễn Thị Chín. Vào năm 1978, hộ gia đình ông Mạnh được Nhà nước giao cho một phần diện tích đất trồng lúa các thửa đất số 205, 247, 246, 266, 287, 307, 314 tờ bản đồ số 32 xã LD, huyện ĐĐ (thửa cũ là 84, 85, 68 và 142, tờ bản đồ số 20) tổng diện tích các thửa đất là 8.028,2m2. Trong quá trình canh tác, hộ ông Mạnh có khai khẩn thêm thửa đất màu liền kề là thửa đất 231 tờ bản đồ số 32 (thửa cũ là 12 tờ bản đồ số 20) với tổng diện tích là 2.061,6m2. Ông Mạnh chết vào ngày 01/2/1995 không để lại di chúc, bà LQ_Út vợ ông Mạnh vẫn còn sống, các thửa đất trên ông BĐ_Dũng là người trực tiếp quản lý sử dụng đã được Nhà nước xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào sổ cấp giấy số 01354/QSDĐ ngày 24/6/2002 của Ủy ban nhân dân huyện LĐ.


10/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 541
  • 6

Tranh chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất

12-02-2009
TAND cấp tỉnh

Ngày 06/10/2003, vợ chồng bà NĐ_Hảo, ông LQ_Dũng cùng với vợ chồng ông LQ_Lê Quốc Nam, bà LQ_Nguyễn Thị Thu Trang và vợ chồng bà BĐ_Dương Thị Thúy, ông BĐ_Lê Quốc Đạt hùn vốn chuyển nhượng của ông Phạm Văn Phòng diện tích đất 10.046m2 thuộc thửa 585, tờ bản đồ 24 tọa lạc tại xã HL, thị xã BR. Mỗi bên góp vốn 114.666.667 đồng. Bà NĐ_Hảo đại diện ký hợp đồng chuyển nhượng đất với ông Phòng và đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn ông LQ_Nam là Người giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các bên thỏa thuận mọi biến đổi về lô đất phải có ý kiến bàn bạc chung, không ai tự ý làm riêng. Năm 2006, vợ chồng bà NĐ_Hảo hỏi ông LQ_Nam về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông LQ_Nam quanh co nên vợ chồng Bà đến xem đất.


11/2009/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 326
  • 6

Tranh chấp hợp đồng vay tài sản

12-02-2009
TAND cấp tỉnh

Ngày 20/7/2006, vợ chồng ông BĐ_Nguyễn Tiến Dũng và bà BĐ_Nguyễn Thị Bích Phượng ký Hợp đồng tín dụng số 06.190023/HĐTD với nội dung vay của NĐ_Ngân Hàng ABC Việt Nam-Chi nhánh tỉnh BR - VT (Ngân hàng) số tiền là 900.000.000 (chín trăm triệu) đồng; thời hạn vay là 60 tháng; lãi suất cho vay trong hạn 1,1%/tháng; lãi suất quá hạn cộng thêm 50% mức lãi suất cho vay trong hạn. Phương thức trả nợ: trả lãi và gốc 6 tháng/kỳ; lịch trả nợ theo phụ lục hợp đồng kèm theo. Tài sản thế chấp là nhà và đất tại số 09, đường BĐ, phường 5, thành phố VT, tỉnh BR - VT. Các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất để thế chấp gồm: Giấy chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 7201050732; Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số W750746 do Ủy ban nhân dân thành phố VT cấp ngày 28/11/2003, Giấy phép xây dựng do Ủy ban nhân dân thành phố VT cấp ngày 20/7/2004; Bản vẽ sửa chữa nhà. Ngân hàng đã giải ngân vào ngày 20/7/2006. Ngoài ra trong hợp đồng, hai bên còn thoả thuận một số điều kiện khác.


52/2009/HNGĐ-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1756
  • 34

Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng

28-02-2009
TAND cấp tỉnh

Anh và chị Lê Thị Phúc kết hôn vào năm(1989) trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Sau khi cưới, vợ chồng sống hạnh phúc bình thường đến năm 2002 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do nghề nghiệp anh là lái xe, thường xuyên xa nhà. Cha mẹ anh thì đã già yếu, đau ốm nhưng chị Phúc ít quan tâm đến cha mẹ chồng, thường xuyên bỏ cha mẹ anh để về nhà cha mẹ ruột của mình ở. Đến tháng 04/2008, chị Phúc tự ý dọn vật dụng trong gia đình bỏ đi và vợ chồng sống ly thân cho đến nay.