cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
243/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1179
  • 38

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

11-06-2014

Nguồn gốc phần đất đang tranh chấp diện tích 137.384 m2 là của cụ Ngô Văn Ba và cụ Nguyễn Thị Ca có từ trước giải phóng. Năm 1977 ông Ba chết, bà NĐ_Ngô Thị Anh sống chung với cụ Ca và canh tác. Năm 1995 bà NĐ_Anh được ủy ban nhân dân huyện TM, tỉnh ĐT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 20/04/1998 cụ Ca làm di chúc cho bà NĐ_Anh toàn bộ phần đất nhưng anh BĐ_Nguyễn Văn Hào và chị BĐ_Ngô Thị Hạnh Diễm chiếm hết đất vườn tạp trong phần diện tích 137.384 m2 mà bà NĐ_Anh được sử dụng. Nay bà NĐ_Anh đồng ý cho anh BĐ_Nguyễn Văn Hào và chị BĐ_Ngô Thị Hạnh Diễm sử dụng phần đất vườn tạp ngang 4m X dài 62m (phần anh BĐ_Hào, chị BĐ_Diễm đang ở) và yêu cầu anh BĐ_Hào, chị BĐ_Diễm trả phần đất lấn chiếm còn lại.


244/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1761
  • 66

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

11-06-2014

Ông NĐ_Sang yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông BĐ_Ba với ông LQ_Chiết phần đất 1.176,8m2, hủy hợp đồng tặng cho giữa ông BĐ_Ba với ông LQ_Sinh phần đất 968,6m2 để nhập vào phần đất còn lại của ông BĐ_Ba để chia thừa kế. Như vậy ông NĐ_Sang yêu cầu chia thừa kế phần đất diện tích 3.369,6m2. Ông NĐ_Sang, bà LQ_Bình, bà LQ_Na, ông LQ_Tấn yêu cầu chia chung 1 thửa lớn rồi tự chia suất riêng. Ông NĐ_Sang, bà LQ_Bình, bà LQ_Na, ông LQ_Tấn tự nguyện bồi thường tiền cát ông BĐ_Ba đã san lấp là 20.000.000 đồng. Đối với số cây trên đất thì ông BĐ_Ba, ông LQ_Chiết, ông LQ_Sinh tự di dời.


25/2014/DS–GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 419
  • 17

Tranh chấp quyền sử dụng đất

12-06-2014

Ông BĐ_Nga và bà BĐ_Tố đều khai rằng ông bà không biết việc cụ Hưng chuyển nhượng đất cho bà NĐ_Na và bà NĐ_Na được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất trên lúc nào ông bà cũng không biết. Vì vậy, cần xác định rõ phần đất nào là di sản của cụ Kỉnh, phần đất nào là di sản của cụ Hưng sau khi trừ phần cụ Hưng đã cho ông BĐ_Nga và bà BĐ_Tố cất nhà ở; ai là người trực tiếp quản lý sử dụng phần di sản của cụ Kỉnh để lại?. Những vấn đề trên chưa được xác định, xác minh làm rõ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại chia thừa kế diện tích 1.160m2 đất của cụ Kỉnh và cụ Hưng cho các đồng thừa kế của hai cụ là không đúng; còn Tòa án cấp phúc thẩm xác định phần đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của cá nhân cụ Hưng và việc cụ Hưng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà NĐ_Na phù hợp với quy định của pháp luật, từ đó buộc ông BĐ_Nga và bà BĐ_Tố phải dỡ nhà trả lại diện tích đất mà cụ Hưng đã để cho ông BĐ_Nga và bà BĐ_Tố cất nhà ở là không đúng


26/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1376
  • 34

Đòi lại tài sản

12-06-2014

Năm 2007, mẹ của anh là bà Thời chết (tại Mỹ). Các em của anh sống ở nước ngoài là anh LQ_Lý Hồng Vinh, anh LQ_Lý Hồng Phú, anh LQ_Lý Hồng Lâm và chị LQ_Lý Hồng Thư đồng loạt phản đối Biên bản họp gia tộc năm 2001 vì cho rằng ngôi nhà số 15 theo Chúc ngôn của ông bà nội là để làm nhà thờ, nhưng mẹ của anh là bà Thời lại cắt một phần chia cho gia đình bà Xò là không đúng. Do đó, anh khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh BĐ_Thông, anh BĐ_Thái, chị BĐ_Lan trả lại toàn bộ nhà, đất tại số 15 TBT cho gia đình anh theo Chúc ngôn năm 1969 của ông bà nội là cụ Đức và cụ Chà.


28/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 304
  • 5

Tranh chấp thừa kế

13-06-2014

Đối với diện tích các thửa 1914, 1915 (do bà LQ_Liên đứng tên) và thửa 1887 (đứng tên ông Thân) thuộc ấp Bình Lương, xã ĐK, huyện CT tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng các đương sự đều xác nhận là của cụ Sáu, phần đất này đã đứng tên bà LQ_Liên, ông Thân trong sổ đăng ký đất nên theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 50 và Điều 136 Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Toà án. Đối với phần đất 1.830m2 (đo thực tế là 2.732,4m2) của các thửa đất số 21, 22, 28, 29 thuộc ấp Long Mỹ, xã LTB, huyện HT cần phải thu thập chứng cứ để xác định đương sự có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 50 Luật đất đai không để xác định có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án không. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ những tình tiết nêu trên để giải quyết trong cùng vụ án là không đúng.


254/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 429
  • 5

Tranh chấp thừa kế

16-06-2014

Bà BĐ_Đan không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Sa, bà NĐ_Hằng, bà NĐ_Son, vì cho rằng bà là người trực tiếp quản lý, sử dụng đất từ năm 1975 đến nay, quá trình quản lý bà đã thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Đối với căn nhà của cụ Xấu và cụ Khoan hiện ông BĐ_Sinh đang quản lý sử dụng, bà BĐ_Đan thống nhất giao cho ông BĐ_Sinh được quyền nhận hưởng và quản lý sử dụng


31/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1243
  • 55

Tranh chấp thừa kế

10-07-2014

trong quá trình giải quyết vụ, án ông BĐ_Hào có yêu cầu được chia hiện vật là căn nhà số 60/2 đường Độc Lập để làm nơi thờ cúng, nhưng Tòa án phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông BĐ_Hào; giao cho Cơ quan thi hành án bán đấu giá 02 căn nhà để chia giá trị cho các thừa kế cũng là không đúng. Tuy nhiên, tại Công văn số 4743/CTHA ngày 21/02/2014, Cục Thi hành án dân sự thành phố HCM xác định Cơ quan thi hành án đã tổ chức bán đấu giá hai căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất theo quyết định tại bản án phúc thẩm. Như vậy, nhà đất có tranh chấp đã được chuyển giao hợp pháp cho người thứ 3 ngay tình. Vì vậy, không còn là di sản thừa kế để chia, nên khi giải quyết lại phải chia bằng giá trị cho những người thừa kế số tiền tương ứng với kỷ phần mà từng đương sự được hưởng. Bởi các lẽ trên, căn cứ Khoản 3 Điều 291, Khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội).