cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
271/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 961
  • 14

Tranh chấp chia di sản

17-07-2014

Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 128/2011/DS-PT ngày 17/5/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh AG và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 12/2011/DS-ST ngày 18/01/2011 của Tòa án nhân dân huyện CP, tỉnh AG về vụ án “Tranh chấp chia thừa kế” giữa các nguyên đơn là ông NĐ_Đàm Văn Tú, ông NĐ_Đàm Văn Quan và bà NĐ_Đàm Thị Châu với bị đơn là ông BĐ_Đàm Văn Hào; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông LQ_Nguyễn Văn Tài, bà LQ_Nguyễn Thị Đào


275/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 249
  • 7

Tranh chấp thừa kế

21-07-2014

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản của cụ Triệu, chia tài sản chung đối với tài sản của cụ My là đúng. Tuy nhiên, về cách chia hiện vật là chưa phù hợp, vì theo Quyết định số 58/2009/QĐ - UB ngày 30/3/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố HN quy định về hạn mức đất được tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố HN phải có diện tích tối thiểu không nhỏ hơn 30m2, có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng từ 3m trở lên. Lẽ ra, trong trường hợp này Tòa án phải giải thích để các đương sự thương lượng việc phân chia đất, nếu ai cũng có nhu cầu sử dụng thì vẫn phải chia và chỉ có quyền đề nghị cấp chung tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu các đương sự không đồng ý thì phải chia đất theo đúng quy định của Ủy ban nhân dân thành phố HN. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ những nội dung trên nhưng vẫn chia đất cho các đương sự, có người không đủ điều kiện để cấp riêng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa phù hợp. Thực tế phần đất giao cho ông BĐ_Hà, ông đã chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Hằng 24m2 từ ngày 25/5/2008 (giấy tờ viết tay), bà Hằng đã đóng thuế nhà đất từ năm 2009, hiện bà Hằng đang quản lý và sử dụng phần nhà đất này, nên Thi hành án không thể giao phần đất này cho ông BĐ_Tấn theo bản án được. Về tố tụng: Tòa án các cấp không đưa bà Hằng tham gia tố tụng để giải quyết triệt để vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng


275/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 695
  • 9

Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung

21-07-2014

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản của cụ Triệu, chia tài sản chung đối với tài sản của cụ My là đúng. Tuy nhiên, về cách chia hiện vật là chưa phù hợp, vì theo Quyết định số 58/2009/QĐ - UB ngày 30/3/2009 của Ủy ban nhân dân thành phố HN quy định về hạn mức đất được tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố HN phải có diện tích tối thiểu không nhỏ hơn 30m2, có chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng từ 3m trở lên. Lẽ ra, trong trường hợp này Tòa án phải giải thích để các đương sự thương lượng việc phân chia đất, nếu ai cũng có nhu cầu sử dụng thì vẫn phải chia và chỉ có quyền đề nghị cấp chung tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu các đương sự không đồng ý thì phải chia đất theo đúng quy định của Ủy ban nhân dân thành phố HN. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ những nội dung trên nhưng vẫn chia đất cho các đương sự, có người không đủ điều kiện để cấp riêng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa phù hợp. Thực tế phần đất giao cho ông BĐ_Hà, ông đã chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Hằng 24m2 từ ngày 25/5/2008 (giấy tờ viết tay), bà Hằng đã đóng thuế nhà đất từ năm 2009, hiện bà Hằng đang quản lý và sử dụng phần nhà đất này, nên Thi hành án không thể giao phần đất này cho ông BĐ_Tấn theo bản án được. Về tố tụng: Tòa án các cấp không đưa bà Hằng tham gia tố tụng để giải quyết triệt để vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng


276/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1485
  • 19

Tranh chấp thừa kế

21-07-2014

Trong quá trình giải quyết vụ án, chính bị đơn đã thừa nhận diện tích đất có nguồn gốc là của cụ Tranh được thừa hưởng từ gia tộc. Cụ Phạm Văn Hai là em ruột cụ Phạm Văn Bê cũng xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp là của cụ Bê, cụ Tranh. Do đó việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Mạnh, chia thừa kế một phần diện tích đất tranh chấp, xác định thửa 897 có nguồn gốc từ thửa 1347, 1349 của cụ Tranh đăng ký kê khai để chia thừa kế. Còn Tòa án cấp phúc thẩm chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà BĐ_Phú và cho rằng thời điểm năm 1975 cụ Tranh đã già (65 tuổi) không thể đứng ra cất nhà, khai phá đất, từ đó bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Tòa dân sự xét xử giám đốc thẩm, hủy cả bản án dân sự phúc thẩm và bản án dân sự sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại là cần thiết nên chấp nhận.


304/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 1277
  • 36

Tranh chấp chia di sản

28-07-2014

Bên cạnh đó Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm còn có sai sót sau: Ông Đỗ Kiểm chết trước cụ Phan Thị Đạt nên trong trường hợp này các anh chị LQ_Đỗ Thị Linh, LQ_Đỗ Thị Hà, LQ_Đỗ Thị Sa, LQ_Đỗ Thị Hảo, LQ_Đỗ Thị Châu, LQ_Đỗ Thị Trà, LQ_Đỗ Thị Trân, BĐ_Đỗ Quang Vũ, BĐ_Đỗ Quang Tâm, LQ_Đỗ Thị Kim Thư là người thừa kế thế vị di sản của cụ Phan Thị Đạt. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm quyết định bà LQ_Võ Thị Hoa cũng được hưởng di sản thừa kế của cụ Đạt là không đúng pháp luật. Đất tranh chấp gồm có đất ở và đất trồng cây lâu năm có giá trị khác nhau. Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết chia theo hiện vật mỗi phần thừa kế 1.333,2m2 mà chưa tính đến vấn đề giá trị là ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế được nhận đất có giá trị thấp. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định bà NĐ_Đỗ Thị Điệp, bà NĐ_Đỗ Thị Cẩm có nghĩa vụ thanh toán cho bà LQ_Võ Thị Hoa và 10 người con giá trị 31,2m2 đất chênh lệch theo giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh TN quy định mà không theo giá thị trường là không phù hợp pháp luật.


36/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 863
  • 9

Tranh chấp thừa kế

18-08-2014

Cụ NĐ_Ngô Thị Na (sinh năm 1914), cụ Ngô Thị Huyến (sinh năm 1922) và cụ LQ_Ngô Thị Hà (sinh năm 1935) là ba chị em ruột. Cụ Huyến và chồng là cụ Huỳnh Văn Liễu là chủ sở hữu căn nhà 115 BVĐ (số cũ là nhà 113, 114, 115), phường 9, quận X, thành phố HCM. Vợ chồng cụ Huyến, cụ Liễu có một người con là bà BĐ_Huỳnh Thị Bích Lợi. Ngày 28/8/2002, cụ Huyến lập “Tờ di chúc” giao quyền sở hữu căn số 115 BVĐ cho vợ chồng cụ NĐ_Na. Ngày 25/01/2003, cụ Huyến chết, 2006 cụ Liễu chết. Khi cụ NĐ_Na liên lạc để làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế thì bà BĐ_Lợi ngăn chặn. Hiện tại căn nhà nói trên do anh LQ_Phạm Quang Sang (người được bà BĐ_Lợi giao quản lý) chiếm ở. Vì vậy, cụ NĐ_Na khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận di chúc cụ Huyến lập ngày 28/8/2002


37/2014/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 390
  • 7

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

18-08-2014

Nhà đất tranh chấp có chiều ngang mặt đường TP là 11,20m, dài theo hẻm 7 HT là 25,6m, nên có thể chia bằng hiện vật được. Hơn nữa, nguyên đơn yêu cầu nhận lại nhà. Đồng thời kết quả xác minh ngày 26/6/2014 về nhà ở của phía nguyên đơn thấy rằng hiện nay cụ Hiếu (vợ của cụ NĐ_Nhất) không có nhà ở LQ_Oán định nên phải đi ở nhờ các con; còn ông Giang (con của vợ chồng cụ NĐ_Nhất) vẫn ở nhờ nhà vợ. Như vậy, phía nguyên đơn đang có nhu cầu về nhà ở. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại chia cho những người thừa kế của cụ NĐ_Nhất nhận giá trị là không đúng với qui định tại Khoản 2 Điều 685 Bộ luật dân sự và bảo đảm quyền lợi của những người này