cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
  • Chỉ thị số 29/2000/CT-BGD&ĐT ngày 25/07/2000 Về nhiệm vụ trung tâm của toàn ngành trong năm học 2000-2001 do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành (Văn bản hết hiệu lực)

  • Số hiệu văn bản: 29/2000/CT-BGD&ĐT
  • Loại văn bản: Chỉ thị
  • Cơ quan ban hành: Bộ Giáo dục và Đào tạo
  • Ngày ban hành: 25-07-2000
  • Ngày có hiệu lực: 25-07-2000
  • Ngày bị bãi bỏ, thay thế: 12-09-2007
  • Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực
  • Thời gian duy trì hiệu lực: 2605 ngày (7 năm 1 tháng 20 ngày)
  • Ngày hết hiệu lực: 12-09-2007
  • Ngôn ngữ:
  • Định dạng văn bản hiện có:
Caselaw Việt Nam: “Kể từ ngày 12-09-2007, Chỉ thị số 29/2000/CT-BGD&ĐT ngày 25/07/2000 Về nhiệm vụ trung tâm của toàn ngành trong năm học 2000-2001 do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành (Văn bản hết hiệu lực) bị bãi bỏ, thay thế bởi Quyết định số 41/2007/QĐ-BGDĐT ngày 08/08/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và liên tịch ban hành từ năm 1999 đến năm 2005 hết hiệu lực”. Xem thêm Lược đồ.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 29/2000/CT-BGD&ĐT

Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 2000

 

CHỈ THỊ

VỀ NHỮNG NHIỆM VỤ TRUNG TÂM CỦA TOÀN NGÀNH TRONG NĂM HỌC 2000-2001

Sau hơn ba năm phấn đấu thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, ngành giáo dục đã có những chuyển biến đáng kể. Mạng lưới trường lớp tiếp tục được duy trì, phát tiển với hình thức đa dạng hơn. Quy mô giáo dục đã không ngừng tăng lên và đang được điều chỉnh để phù hợp với các điều kiện đảm bảo chất lượng, khắc phục dần tình trạng mất cân đối về cấp, bậc học, vùng miền và ngành nghề đào tạo. Đội ngũ giáo viên tiếp tục được tăng cường theo hướng chuẩn hoá. Các trường sư phạm thu hút ngày càng đông học sinh với chất lượng đầu vào cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu tạo nguồn cung cấp giáo viên, giảng viên cho các cấp học, bậc học. Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng tiếp tục được củng cố, nâng cấp. Số lượng học sinh, sinh viên khá, giỏi tăng lên. Trong ngành, từ giáo dục mầm non đến đại học và sau đại học đều đã xuất hiện những đơn vị và cá nhân điển hình tiên tiến phù hợp với yêu cầu mới của xã hội. Gia đình và cộng đồng chăm lo nhiều hơn cho sự nghiệp giáo dục. Hợp tác quốc tế về giáo dục tiếp tục được mở rộng và có hiệu quả.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, giáo dục nước ta còn chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước ngưỡng cửa của thế kỷ mới, giáo dục Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Công tác quản lý giáo dục còn bất cập so với yêu cầu ổn định, phát triển sự nghiệp giáo dục. Những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội và ngay trong ngành giáo dục chưa được ngăn chặn kịp thời đã có tác động xấu đến nhà trường và một bộ phận học sinh, sinh viên. Những chính sách về đầu tư, huy động nguồn lực, tạo động lực cho nhà giáo và người học còn chưa đầy đủ và thiếu cụ thể.

Để chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo ra sự chuyển biến có tính đột phá trong ngành, chuẩn bị các tiền đề cho sự phát triển giáo dục trong những năm đầu của thế kỷ 21, trong năm học 2000-2001 và những năm học tiếp theo, toàn ngành giáo dục phải tập trung thực hiện năm nhiệm vụ chính dưới đây:

1. Tăng cường trật tự, kỷ cương; xây dựng, củng cố môi trường sư phạm; phấn đấu để mọi hoạt động của nhà trường đều có tác dụng giáo dục thiết thực và sâu sắc đối với học sinh, sinh viên.

Các tập thể sư phạm phải đảm bảo nêu cao tính gương mẫu; không chỉ giáo dục học sinh, sinh viên bằng việc lên lớp, giảng bài mà trước hết phải bằng thái độ tận tuỵ với nghề, thương yêu học sinh, sinh viên và nêu gương sáng cho học sinh, sinh viên về mọi mặt. Kiên quyết khắc phục những biểu hiện thương mại hoá quan hệ thầy - trò, nghiêm cấm tình trạng ép buộc học trò học thêm để thu tiền.

Các hoạt động giáo dục, nhất là giảng dạy - học tập, phải theo đúng quy định, bảo đảm chất lượng và hiệu quả. Không cắt xén chương trình; không hạ thấp yêu cầu đào tạo. Khắc phục tình trạng gian lận trong thi cử, kiểm tra, đánh giá, cấp phát và sử dụng văn bằng, chứng chỉ. Ngăn chặn và đẩy lùi mọi biểu hiện tiêu cực thâm nhập vào nhà trường. Trường học phải là thành trì của thế hệ trẻ chống lại ma tuý và các tệ nạn xã hội.

2. Xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên; bảo đảm tính ổn định trước mắt về nội dung, khắc phục những yếu kém về phương pháp giảng dạy - học tập; tích cực chuẩn bị cho việc đổi mới một cách căn bản về chương trình, sách giáo khoa, giáo trình; tiếp tục củng cố, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của các nhà trường.

Tất cả các cơ sở giáo dục, từ giáo dục mầm non đến đại học và sau đại học, đều phải tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên, thực hiện yêu cầu đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, chuẩn hoá về trình độ đào tạo, vững vàng về tư tưởng chính trị và nghiệp vụ sư phạm. Các địa phương phối hợp với Bộ giải quyết các vướng mắc về chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý giáo dục và nhà giáo công tác tại các địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và cô giáo mầm non nông thôn. Các trường đại học, cao đẳng tăng cường đào tạo giảng viên trẻ, khắc phục tình trạng hẫng hụt đội ngũ nòng cốt, tăng tỷ lệ Giáo sư, Phó giáo sư và giảng viên có học vị sau đại học. Tất cả các trường học làm tốt hơn nữa công tác xây dựng, củng cố cơ sở Đảng và phát triển đảng viên, nêu cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Chi bộ, Đảng bộ nhà trường.

Các địa phương cần khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan, giảng dạy - học tập quá tải ở giáo dục phổ thông; chuẩn bị các điều kiện để triển khai chương trình tiểu học sau năm 2000; tổ chức tốt việc thực nghiệm chương trình và sách giáo khoa mới ở trung học cơ sở; tham gia xây dựng chương trình trung học phổ thông theo hướng phân ban. Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp chủ động tham gia xây dựng chương trình khung, tổ chức biên soạn giáo trình, hiện đại hoá nội dụng và phương pháp đào tạo.

Các cơ sở giáo dục mầm non phải là mẫu mực đối với gia đình về chăm sóc, nuôi dạy trẻ. Tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức ở tất cả các bậc học. Khắc phục khó khăn để bảo đảm yêu cầu giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ ở nhà trường phổ thông. Thực hiện hài hoà giữa học tập, rèn luyện và vui chơi ở tiểu học. Coi trọng bồi dưỡng khả năng tự học, giáo dục hướng nghiệp, tham gia hoạt động tập thể và công tác xã hội ở trung học cơ sở và trung học phổ thông. Nhấn mạnh yêu cầu nghiệp vụ và kỹ năng thực hành ở trung học chuyên nghiệp. Kết hợp học tập - nghiên cứu khoa học, nâng cao ý thức sẵn sàng phục vụ xã hội trong sinh viên đại học, cao đẳng. Trường đại học, cao đẳng phải là trung tâm văn hoá, khoa học, kỹ thuật, đi đầu trong nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ.

Tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường học; huy động, sử dụng có hiệu quả và đúng quy định mọi nguồn lực để sửa chữa, nâng cấp, xây mới trường lớp, phòng thí nghiệm, thư viện, ký túc xá; mua sắm tài liệu, thiết bị dạy học và khoa học. Quan tâm hơn nữa đến việc tạo lập và giữ gìn cảnh quan sư phạm, làm cho tất cả các trường học, các ký túc xá đều xanh, sạch, đẹp để thật sự có tác dụng giáo dục học sinh, sinh viên.

3. Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá giáo dục; điều chỉnh việc bố trí, sắp xếp nhà trường thuộc các loại hình để tăng cường tính hợp lý trong quá trình huy động, sử dụng nguồn lực và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.

Tất cả các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà trường và các cơ sở giáo dục khác đều phải tham gia công tác tuyên truyền, làm cho mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội hiểu được khó khăn và quyết tâm của ngành để cùng chia sẻ trách nhiệm trong việc chấn hưng giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tăng cường sự gắn bó chặt chẽ giữa nhà trường với cộng đồng dân cư và địa phương; thực hiện bằng được nguyên tắc nhà trường của dân, do dân và vì dân.

Tăng cường quản lý và phát huy những thuận lợi của nhà trường ngoài công lập, làm cho các trường ngoài công lập giành được sự tín nhiệm của nhân dân và đóng góp thật sự có hiệu quả vào công cuộc phát triển giáo dục.

Đi đôi với việc đẩy mạnh quá trình xã hội hoá giáo dục phải tăng cường thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện nhiều hơn cho sự phát triển giáo dục ở những địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Các Sở và tất cả các trường học cần quan tâm, chăm sóc việc học tập của học sinh, sinh viên thuộc các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, con em các dân tộc thiểu số, con em các gia đình nghèo, học sinh, sinh viên khuyết tật.

4. Đổi mới công tác kế hoạch; thực hiện công khai, minh bạch về tài chính; điều chỉnh quy mô để phù hợp với điều kiện đảm bảo chất lượng, tiến đến cân đối về trình độ và ngành nghề đào tạo, đảm bảo cơ cấu vùng, miền, đáp ứng yêu cầu dân trí, nhân lực, nhân tài của đất nước.

Công tác xây dựng kế haọch của ngành phải được cải tiến nhằm nâng cao tính khả thi, gắn kế hoạch hàng năm với kế hoạch 5 năm, bảo đảm cơ chế phối hợp giữa Bộ và Sở, giữa Bộ và các trường đại học, cao đẳng trong quá trình xây dựng kế hoạch. Bộ sẽ phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan sửa đổi, bổ sung hệ thống định mức và chỉ tiêu pháp lệnh. Tăng cường tính pháp lý của kế hoạch và yêu cầu nghiêm túc trong việc thực hiện kế hoạch. Nâng cao hiệu quả của các dự án quốc tế và chương trình mục tiêu.

Thực hiện công khai, minh bạch về thu - chi tài chính trong các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà trường và các cơ sở giáo dục khác thuộc tất cả các loại hình công lập và ngoài công lập. Kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi tham nhũng, sử dụng kinh phí giáo dục sai mục đích, làm thất thoát kinh phí giáo dục; lợi dụng hoạt động giáo dục để vụ lợi.

Các nhà trường thuộc mọi loại hình công lập và ngoài công lập, ở mọi cấp học, bậc học đều phải tuyển sinh theo quy định, bảo đảm phù hợp với năng lực và điều kiện về đội ngũ và cơ sở vật chất. Nghiêm cấm việc tuyển sinh sai tiêu chuẩn, vượt chỉ tiêu được giao. Chấm dứt tình trạng tuỳ tiện trong việc liên kết đào tạo, mở lớp ở địa phương. Củng cố kết quả phổ cập tiểu học, xoá mù chữ, thực hiện phổ cập trung học cơ sở, tăng cường năng lực đào tạo và tính hấp dẫn của các trường trung học chuyên nghiệp để đáp ứng yêu cầu nhân lực đã qua đào tạo và thực hiện phân luồng sau trung học cơ sở.

5. Kiện toàn các cơ quan quản lý giáo dục; tăng cường cả về số lượng và chất lượng đội ngũ thanh tra giáo dục ở tất cả các cấp; hoàn thiện một bước hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý trong ngành.

Cơ quan Bộ, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo cần củng cố về tổ chức và nhân sự, đổi mới về lề lối làm việc và tác phong công tác, khắc phục tệ quan liêu, cửa quyền. Các Sở và Phòng Giáo dục - Đào tạo quận, huyện đều phải xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế, quy định về lề lối làm việc của cơ quan; làm tốt chức năng tham mưu cho Uỷ ban nhân dân để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Mọi cán bộ, công chức trong ngành đều nâng cao tinh thần phục vụ, ý thức kỷ luật, làm việc tận tuỵ, chí công, vô tư, tôn trọng và thực hiện các quy định của pháp luật. Các cơ quan quản ký giáo dục cần giảm bớt hội họp, tập trung vào công tác kiểm tra, thanh tra, khảo sát tình hình, đúc rút kinh nghiệm.

Để tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện cải cách hành chính, cần kiện toàn bộ máy thanh tra giáo dục, bố trí những cán bộ có phẩm chất tốt và vững vàng về nghiệp vụ bổ sung vào các cơ quan thanh tra của ngành. Các Sở Giáo dục và Đào tạo bố trí 10% biên chế quản lý nhà nước cho Thanh tra Sở. Tất cả các cấp quản lý giáo dục đều phải tạo điều kiện thuận lợi để thanh tra làm tròn trách nhiệm.

Bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục, ban hành theo thẩm định các Điều lệ nhà trường, Quy chế tổ chức và hoạt động của các trung tâm, kịp thời có văn bản hướng dẫn thực hiện các Nghị định, Quyết định của cấp trên. Các cấp quản lý giáo dục, các nhà trường và cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm tham gia xây dựng và nghiêm chỉnh thực hiện các quy định, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý trong ngành.

Cùng với việc tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong các hoạt động của ngành, các cơ quan quản lý giáo dục và các nhà trường phải nghiêm chỉnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, xem đây là khâu trọng yếu để phát huy sức mạnh của ngành và huy động nhân dân tham gia phát triển giáo dục, ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực trong ngành và từ xã hội ảnh hưởng đến ngành.

Năm học 2000-2001 diễn ra trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Toàn ngành giáo dục cần đẩy mạnh phong trào Thi đua Hai tốt, tập trung thực hiện năm nhiệm vụ nêu trên, lập thành tích chào mừng Đại hội Đảng. Trong quá trình tham gia xây dựng văn kiện Đại hội, các cấp quản lý giáo dục cần chủ động tham mưu với các cấp uỷ về các mục tiêu và giải pháp phát triển giáo dục nhằm phát huy lợi thế con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, ban ngành, các Uỷ ban nhân dân cấp dưới tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế quản lý giáo dục, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý giáo dục địa phương, các trường học và cơ sở giáo dục khác trên địa bàn thực hiện tốt năm nhiệm vụ nêu trên để hoàn thành thắng lợi năm học.

Các Giám đốc sở có trách nhiệm tổ chức triển khai, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cấp quản lý giáo dục, các trường học và cơ sở giáo dục khác ở địa phương tập trung thực hiện nhiệm vụ năm học; tham mưu với Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể tạo điều kiện thuận lợi để ngành thực hiện nhiệm vụ năm học.

Các Giám đốc đại học, Hiệu trưởng trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có trách nhiệm tổ chức triển khai và thực hiện nhiệm vụ năm học trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn được giao.

Các Thủ trưởng đơn vị trong cơ quan Bộ có trách nhiệm giúp Lãnh đạo Bộ hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các cấp quản lý giáo dục địa phương và các nhà trường thực hiện nhiệm vụ năm học; kịp thời báo cáo, phản ánh tình hình, đề xuất các giải pháp chỉ đạo để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện.

Chỉ thị này được phổ biến đến tất cả các cán bộ, công chức của các cơ quan giáo dục và các nhà giáo của các trường học trong toàn ngành thuộc mọi loại hình công lập và ngoài công lập để quán triệt và thực hiện.

 

 

Nguyễn Minh Hiển

(Đã ký)