cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

357/2015/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 13

Đòi lại tài sản

18-08-2015
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 09/3/2012, trong các bản tự khai cũng như tại các phiên hòa giải và lời trình bày tại phiên tòa, nguyên đơn - NĐ_Công ty cổ phần Khang Khang, đại diện theo ủy quyền là ông Hồ Đức Linh trình bày: Năm 2006, bà LQ_Ngô Thị Bích Toán cùng các cổ đông khác thành lập NĐ_Công ty cổ phần Khang Khang (sau đây gọi là công ty). Tháng 9/2007 các cổ đông khác rút vốn khỏi công ty chỉ còn một mình bà LQ_Toán bỏ vốn duy trì hoạt động của công ty, tất cả các khoản tiền của công ty đều do bà LQ_Toán đóng góp.


230/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 6

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-06-2014

Theo đơn khởi kiện và nhũng lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông NĐ_Lê Văn Tuấn (do ông Lê Văn Lang đại diện ủy quyền) trình bày: Vào năm 1991 - 1992, ông được ủy ban nhân dân xã TB, huyện TH, tỉnh ĐT cấp cho phần đất diện tích 11.173m2. Ngày 17/03/1993, ông NĐ_Tuấn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 108, tờ bản đồ số 01. Khi ông NĐ_Tuấn được cấp đất thì trước đó bà BĐ_Trịnh Thị Tú và BĐ_Trần Văn Minh đã được cấp hai phần đất liền kề. Do thửa 108 là đất gò cao, không có đường nước vào nên không ai sử dụng nên ông NĐ_Tuấn mới đăng ký và được cấp đất. Ông NĐ_Lê Văn Tuấn canh tác 1 vụ lúa, do không có đường nước nên ông không canh tác nữa. Đến năm 1996, Nhà nước múc kênh, dẫn nước vào đồng, ông canh tác trở lại thì phát hiện ông BĐ_Trần Văn Minh đã lấn chiếm của ông 3.092m2; bà BĐ_Trịnh Thị Tú lấn chiếm 8.414m2 đất. Năm 1997, ông NĐ_Tuấn kiện ra xã cho đến nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông BĐ_Minh và bà BĐ_Tú phải trả cho ông diện tích đã lấn chiếm.


129/2014/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 1

Tranh chấp quyền sử dụng đất

26-03-2014

NHẬN THẤY: Theo đơn khởi kiện ngày 03/6/2010 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn- ông NĐ_Nguyễn Minh Chung trình bày: cha mẹ ông là cụ Nguyễn Nhạc và cụ Nguyễn Thị Diệc (đều đã chết) để lại tài sản là căn nhà trên diện tích đất 1,490m2 thuộc thửa 106, tờ bản đồ số 10, tại thôn Tân Mỹ, xã QP, huyện QT, tỉnh QB. Cha mẹ ông chết không để lại di chúc, các anh chị em ông thống nhất cho ông quản lý, sử dụng nhà đất nêu trên. Năm 2009, do Nhà nước mở đường đi qua một phần đất của ông, nên hàng rào cũ giáp với con đường mới mở không còn, khi ông tiến hành xây dựng lại hàng rào thì ông BĐ_Nguyễn Quang Đông và bà BĐ_Nguyễn Thị Kiên đến ngăn cản và cho rằng trong thửa đất ông đang quản lý, sử dụng có một phần đất của cha mẹ ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên; đồng thời ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên tự ý xây móng hàng rào và xây một tấm bia trên thửa đất ông đang quản lý, sử dụng. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Đông, bà BĐ_Kiên phải tháo dỡ hàng rào và tấm bia ra khỏi thửa đất của gia đình ông.


43/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 12

Tranh chấp thừa kế

22-05-2013

44/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 199
  • 3

Tranh chấp thừa kế

22-05-2013

Cố Giản và cố Kiên chết để lại di sản gồm một căn nhà từ đường cấp 4 (diện tích 75m2) trên lô đất thổ diện tích sau khi mở đường còn 1.043,8m2 thuộc thửa 550 và 551 toạ lạc tại thôn Phú Thạnh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang hiện do ông Vân quản lý nhà và phần lớn đất (cụ Mười và ông Nông làm nhà trên một phần đất cùng trong khuôn viên) và một lô đất màu dùng làm nghĩa địa diện tích 1.384m2 thuộc thửa 439 và 440 cũng tại thôn Phú Thạnh, hiện do ông Vân quản lý toàn bộ.