cơ sở dữ liệu pháp lý



Sắp xếp:

139/2013.GĐT-DS: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 913
  • 10

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

11-11-2013

Cha mẹ của các nguyên đơn là cụ Võ Công Đức và cụ Trần Thị Mỹ là chủ sở hữu căn nhà 334/3 PVT, quận BT, thành phố HCM, trên lô đất diện tích 2.300m2. Nguồn gốc đất này do cụ Võ Công Quang (anh của cụ Đức) đứng tên trên Bằng khoán số 893 năm 1965. Năm 1977, cụ Đức kê khai nhà 334/3 PVT, diện tích 315m2. Trước khi gia đình cụ Đức xuất cảnh sang Mỹ định cư, ngày 16/8/1983, cụ Đức và cụ Mỹ lập “Tờ ủy quyền” với nội dung: cụ Đức có căn nhà ngói và căn nhà ngang tại 334/3 PVT, do cụ xuất cảnh không thể quản lý được nên “bằng lòng ủy quyền căn nhà nói trên cho cháu ruột của tôi là BĐ_Võ Công Trang (hiện là chủ hộ căn nhà nói trên)...được trọn quyền sử dụng sang nhượng trong khi tôi vắng mặt” .


139/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1749
  • 24

Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất

11-11-2013

Năm 2004, cụ Đức và cụ Mỹ có đơn yêu cầu hủy bỏ Giấy phép ủy quyền số 224/GP-7 nói trên, nhưng chưa được giải quyết. Năm 2006, cụ Mỹ và cụ Đức chết. Ngày 12/10/2006, các con của hai cụ lập văn bản ủy quyền cho bà BĐ_Võ Thị Ngọc Lâm định đoạt tất cả những giấy tờ liên quan đến nhà đất 334/3 PVT. Hiện nay, trên đất tranh chấp ngoài căn nhà do cụ Đức xây dựng, còn có nhà của vợ chồng ông LQ_Trực, nhà của cụ Dung (là em của cụ Đức) và một số căn nhà do ông BĐ_Trung xây dựng. Nguyên đơn đồng ý để cụ Dung và vợ chồng ông LQ_Trực tiếp tục sử dụng phần đất mà cụ Dung và ông LQ_Trực đang quản lý, nhà đất còn lại yêu cầu bà BĐ_Lâm và gia đình ông BĐ_Trung trả lại. Nguyên đơn đồng ý thanh toán tiền công sức gìn giữ nhà, đất cho ông BĐ_Trung là 3.000.000.000 đồng.


23/2006/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1966
  • 46

Tranh chấp quyền sử dụng đất

30-11-2006
TAND cấp tỉnh

Năm 1955 ông Dương Doãn thuê của bà Trần Thị Kiếm (mẹ của bà BĐ_Tạ Thị Kim Son) 01 lô đất và xây dựng trên lô đất này 02 căn nhà số 48A và 48B nay là số 70 và 72 LL, phường Z, thành phố VT. Thời gian thuê là 10 năm, từ năm 1955 đến năm 1965, với số tiền 45.000 đồng/10 năm, đã trả trước 15.000 đồng. Ngày 21/9/1956, ông Doãn bán 01 căn nhà số 48 B (số 72 LL hiện nay) cho ông Tăng Luân (bố ông NĐ_Tăng Hà Tô), hai bên có lập “tờ bán nhà” viết tay, hai con ông Luân là Tăng Đại Hà và Tăng Tê Hà đứng lên người mua nhưng người trả tiền là ông Luân với giá 70.000 đồng. Việc mua bán được bà Kiếm chứng kiến và đồng ý cho người mua nhà là ông Luân ở chung trong khu đất của bà Kiếm (BL 55+56). Ông Luân đã ở tại căn nhà này và trả tiền thuê đất cho bà Kiếm đến năm 1966. Năm 1972 ông Luân chết, ngày 15/01/1982 Công ty quản lý nhà đất thuộc sở xây dựng Đặc khu VT- Côn Đảo có “Giấy xác nhận” v/v ông NĐ_Tăng Hà Tô là con đẻ được hưởng quyền thừa kế theo luật đối với tài sản của cha đẻ lại là căn nhà 72 LL, khóm Thăng Hòa, phường Châu Thành (BL04).


82/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 565
  • 12

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

08-07-2013

Ngày 24/12/1973, vợ chồng cụ Huyện tự ý bán một căn nhà lợp tole, vách ván, nền xi măng (nay là số 128/1 Nguyễn Văn Quá, khu phố 2, phường Tân Thới Hiệp, quận 12) cho cụ Trương Chan với giá 80.000 đồng (riêng phần đất thì không bán mà cụ Trương Chan vẫn phải trả tiền thuê hàng năm là 500 đồng). Sau khi phát hiện cụ Huyện tự ý bán phần đất chung là phần nhà xây trên đất thừa kế thì cụ Nhứt tranh chấp từ năm 1990 và khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, ngày 28/4/2006 cụ Nhứt chết. Nay ông đại diện cho các thừa kế của cụ Nhứt yêu cầu hủy việc mua bán nhà giữa cụ Mười, cụ Huyện với cụ Trương Chan. Ông đồng ý hoàn trả tiền mua nhà và chi phí sửa chữa, đồng thời chấp nhận bồi thường thiệt hại, yêu cầu bà Nhỏ (con của cụ Trương Chan) trả nhà trong thời hạn 02 tháng, khi di dời sẽ hỗ trợ 50 triệu đồng. Trường hợp bà Nhỏ muốn tiếp tục sử dụng nhà thì phải hoàn trả giá trị đất và thanh toán giá trị đất trong 6 tháng.


82/2013/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1187
  • 19

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, đất

08-07-2013

Ngày 24/12/1973, vợ chồng cụ LQ_Huệ tự ý bán một căn nhà lợp tole, vách ván, nền xi măng (nay là số 128/1 NVQ, khu phố 2, phường TTH, quận X) cho cụ Trương Chiến với giá 80.000 đồng (riêng phần đất thì không bán mà cụ Trương Chiến vẫn phải trả tiền thuê hàng năm là 500 đồng). Sau khi phát hiện cụ LQ_Huệ tự ý bán phần đất chung là phần nhà xây trên đất thừa kế thì cụ Nha tranh chấp từ năm 1990 và khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện HM, ngày 28/4/2006 cụ Nha chết. Nay ông đại diện cho các thừa kế của cụ Nha yêu cầu hủy việc mua bán nhà giữa cụ Mình, cụ LQ_Huệ với cụ Trương Chiến. Ông đồng ý hoàn trả tiền mua nhà và chi phí sửa chữa, đồng thời chấp nhận bồi thường thiệt hại, yêu cầu bà BĐ_Kinh (con của cụ Trương Chiến) trả nhà trong thời hạn 02 tháng, khi di dời sẽ hỗ trợ 50 triệu đồng. Trường hợp bà BĐ_Kinh muốn tiếp tục sử dụng nhà thì phải hoàn trả giá trị đất và thanh toán giá trị đất trong 6 tháng.