cơ sở dữ liệu pháp lý

Dự thảo án lệ số 18/2024 về việc xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất

DỰ THẢO ÁN LỆ SỐ 18/2024[1]

ÁN LỆ SỐ .../2024/AL

Về việc xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày tháng năm 2024 và được công bố theo Quyết định số /QĐ-CA ngày tháng năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Bản án hành chính phúc thẩm số 427/2019/HC-PT ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất” giữa Người khởi kiện là ông Trần Văn H; Người bị kiện là UBND tỉnh B và UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 6 và 7 phần “Nhận định của Tòa án”

Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ:

Cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, nhưng chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất. Tại thời điểm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất thì giá đất đã có sự thay đổi, nên người bị thu hồi đất không đồng ý với giá đất bồi thường tại thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điều 11, khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ

- Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Từ khóa của án lệ:

“Quyết định thu hồi đất”, “Xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

*Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và người khởi kiện ông Trần Văn H trình bày:

Gia đình ông Trần Văn H bị thu hồi 2.899 m2 đất trong công trình BOT ĐT- 747B đoạn đi xã Khánh Bình (nay là phường K) huyện T (nay là thị xã T). Đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được triển khai thực hiện từ năm 2010.

Tại buổi làm việc đầu tiên ngày 18/12/2014 ông Trần Văn H đã không đồng ý với yêu cầu nhận tiền bồi thường, bàn giao cho ông Trần Văn H các văn bản như sau:

- Quyết định số: 9858/QĐ-UBND, ngày 03/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B từ đoạn nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

- Quyết đinh số: 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, ngụ tại khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Ông Trần Văn H không đồng ý nhận tiền bồi thường, do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T thực hiện việc giải tỏa, bồi thường đối với 2.899,2m2 đất của ông Trần Văn H trái các quy định của pháp luật về giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Ngày 24/12/2014, ông H có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2.899,2 m2 đất của ông H đến UBND thị xã T.

Ngày 10/4/2015, Trung tâm phát triển đất thị xã T tiến hành đối thoại giải quyết các nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H; ngày 29/5/2015 UBND thị xã T ban hành Công văn số: 3131/UBND-TD trả lời đơn của ông Trần Văn H với cùng kết luận như kết quả đối thoại là Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ với diện tích 2.899,2m2 đất của ông H bị thu hồi là đúng theo quy định, cụ thể:

Đối với ý kiến tại sao đến nay, hơn 2 năm kiểm kê, mới đưa quyết định bồi thường và bảng áp giá cho ông Trần Văn H, trong khi Quyết định có ghi rõ ông Trần Văn H có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày: Việc này nguyên nhân do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bố cho Dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Về thời hiệu khiếu nại theo khoản 3 Điều 2 Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T có quy định ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày nhận quyết định. Ông Trần Văn H đã nhận quyết định bồi thường vào ngày 18/12/2014. Theo đó, thời hiệu khiếu nại Quyết định số 14092/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 được tính từ ngày ông Trần Văn H ký nhận quyết định số 10492/QĐ-UBND (ngày 18/12/2014).

Về trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường, hỗ trợ Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 46 và Điều 47 Quyết định số: 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T đã phối hợp với UBND phường K tổ chức họp công khai Phương án bồi thường, niêm yết công khai phương án bồi thường.

Ông Trần Văn H đề nghị thẩm định lại giá đất, thẩm định lại Phương án bồi thường, hỗ trợ số: 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012, nhưng đến ngày 18/12/2014 mới giao cho ông là không có căn cứ để xem xét giải quyết vì phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện (nay là thị xã) được niêm yết công khai đúng trình tự, thủ tục; đơn giá bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên - Môi trường “.. giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm...

Đối với ý kiến nếu không thể điều chỉnh giá đất theo giá thị trường, đề nghị chủ đầu tư và chính quyền địa phương có phương án đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương: Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định “Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Do địa phương không có quỹ đất để bồi thường nên các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo đất tại thời điểm thu hồi đất. Ông Trần Văn H đề nghị đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương là không thực hiện được.

Ông Trần Văn H không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 trả lời đơn khiếu nại và đề nghị của ông Trần Văn H như nêu trên bằng quyết định giải quyết khiếu nại. Ngày 06/9/2016, ông Trần Văn H khiếu nại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T nêu trên, yêu cầu: Hủy bỏ công văn số 3131/UBND- TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T về việc trả đơn của ông Trần Văn H; Yêu cầu UBND thị xã T giao Quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng trình tự quy định pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ- UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H (giá đất bồi thường tại thời điểm thu hồi đất) hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

Ngày 30/12/2015, Chủ tịch UBND thị xã T ban hành quyết định 6465/QĐ- UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD, ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T và Quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, với nội dung:

Về trình tự, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ: UBND thị xã T đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 46 và Điều 47 Quyết định số 87/2009/QĐ- UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện ban ngành thị xã T đã phối hợp với UBND K tổ chức hợp dân công khai phương án bồi thường, niêm yết công khai phương án bồi thường đúng theo quy định.

Về đơn giá bồi thường, hỗ trợ: Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương). Trong đó, quy định đơn giá bồi thường, hỗ trợ về đất áp dụng theo Quyết định số 66/2011/QĐ-UBND ngày 20/12/2011 ban hành quy định bản giá các loại đất năm 2012 và Quyết định số 67/2011/QĐ-UBND ngày 20/11/2011 của UBND tỉnh Bình Dương ban hành hệ số điều chỉnh giá đất (K) năm 2012 trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Những đoạn nắn tuyến có phạm vi giải tỏa ngoài 19m (tính từ tim đường), đối với đất nông nghiệp được hỗ trợ bằng 70% giá đất ở theo Công văn số 492/UBND-KTN. Theo đó, đơn giá bồi thường đất trồng cây lâu năm cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P là: 168.000 đồng/m2, hỗ trợ đất nông nghiệp thửa đất số 68 bằng 70% đơn giá đất ở với diện tích 521,5m2, hỗ trợ đất nông nghiệp bằng 50% đơn giá đất ở với diện tích: 875,5m2, hỗ trợ nắn tuyến bằng 70% đơn giá đất ở với diện tích 103m2, tổng phân tích hỗ trợ bằng 05 lần hạn mức giao đất ở (5 lần x 300 m2 = 1500 m2) đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt tại Quyết định số: 9858/QĐ-UBND.

Đối với nội dung ông Trần Văn H yêu cầu trao đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương: do là dự án nâng cấp, mở rộng đường (ĐT 747B) nên diện tích các hộ dân bị ảnh hưởng nhỏ, phần diện tích còn lại đảm bảo xây dựng nhà ở, tái thiết cuộc sống và số lượng các hộ dân giải tỏa trắng hết đất là rất ít. Do đó, công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đển điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất thời điểm quyết định thu hồi đất là đúng theo quy định tại khoản 2, Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ.

Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên, ngày 07/02/2017 ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 6546/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T đến Chủ tịch UBND tỉnh B.

Ngày 11/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H với nội dung:

Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì: Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt Dự án tổng thể tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011 trên cơ sở Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đến cho người dân, cơ quan chức năng của UBND huyện T cũng đã 02 lần mời ông Trần Văn H, bà Hà Thị P đều không đến và UBND K đã lập Biên bản, niêm yết công khai danh sách các hộ bị thu hồi đất, kèm theo quyết định thu hồi đất tại trụ sở UBND xã K.

Về nội dung ông Trần Văn H yêu cầu bồi thường 2028,2 m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì: UBND huyện T đã áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ mà UBND huyện T phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 và trong phương án trên cũng không quy định về việc hoán đổi đất, hơn nữa địa phương cũng không có quỹ đất để hoán đổi.

Việc UBND thị xã T thực hiện các thủ tục giải tỏa, bồi thường đối với quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H và UBND tỉnh B, UBND thị xã T giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn H là trái pháp luật, cụ thể:

Về trình tự thủ tục giải tỏa, bồi thường:

Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên thực hiện không đúng theo các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục bồi thường, cụ thể:

Căn cứ các Điều 30, 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Điều 46, 47 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B về chính sách, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình Dương quy định về việc lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và quyết định thu hồi đất, phê duyệt, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì đều quy định trước khi phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được gửi đến Cơ quan tài nguyên và Môi trường thẩm định, thì phải được tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức công bố, niêm yết công khai để người bị thu hồi đất và những người có liên quan tham gia ý kiến để hoàn chỉnh phương án. Sau khi Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được phương án tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu hồi, trong đó nêu rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, về bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và thời gian bàn giao đất đã bị thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Tuy nhiên, từ khi dự án triển khai năm 2011 đến ngày 18/12/2014 ông Trần Văn H mới được mời để yêu cầu nhận tiền bồi thường là hơn hai năm, ngoài ra ông Trần Văn H không được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên, UBND K (nay phường K) hay bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào thông báo ông Trần Văn H đến để công bố dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được phê duyệt, cũng như nhận các quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, để ông Trần Văn H biết được quyền sử dụng đất của mình được giải tỏa, bồi thường như thế nào để bảo vệ quyền lợi của mình, thực hiện chủ trương chung của địa phương, trong khi theo các quy định của pháp luật nêu trên đều quy định ông Trần Văn H được thực hiện quyền của người có đất bị thu hồi là tham gia ý kiến đối với phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư, được phổ biến phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt, được nhận quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày phương án bồi thường được phê duyệt.

Quyết định 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T; Quyết định 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết khiếu nại lại trả lời ông Trần Văn H là đã mời ông Trần Văn H đến UBND xã K để công bố và bàn giao Quyết định thu hồi đất theo giấy mời số 112/GM-TN&MT tuy nhiên ông Trần Văn H không đến nên lập biên bản niêm yết. Việc Chủ tịch UBND thị xã T, Chủ tịch UBND tỉnh B đã trả lời như trên là hoàn toàn dối trá, ông Trần Văn H vô cùng bức xúc vì tại Công văn 3131/UBND- TD ngày 29/5/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T và qua các lần làm việc đối thoại trước đó ngày 10/4/2015 ghi nhận rất rõ ràng lý do quyết định bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H được phê duyệt tháng 10/2012 nhưng đến ngày 18/12/2014 mới tổ chức mời ông Trần Văn H nhận quyết định và nhận tiền bồi thường là do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bổ cho dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ.

Phương án bồi thường, giải tỏa và hỗ trợ tái định cư trái pháp luật, cụ thể: Tại Mục 5 quy định các chính sách hỗ trợ đã quy định hạn chế phạm vi được hỗ trợ của người có đất bị thu hồi là chỉ trong phạm vi giải tỏa từ 10m đến 19m thì mới được hỗ trợ, trong khi theo các quy định tại Điều 21 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; Điều 34 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B quy định về hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư đất vườn, ao không được công nhận là đất ở, thì hoàn toàn không có quy định nào cho phép UBND huyện T quy định hạn chế, giới hạn phạm vi giải tỏa được hỗ trợ mà trái lại theo các quy định trên thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích nhưng không quá 05 lần hạn mức giao đất ở tại thời điểm thu hồi.

Quyết định số 8483/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND huyện T về việc thu hồi đất; Quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T (nay thị xã T) về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng trái pháp luật:

Các quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống, kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 28/12/2011 nhưng ông Trần Văn H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông Trần Văn H bị giải tỏa, không xác định ranh móc phần đất giải toả như vậy làm sao xác định được diện tích đất giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất, tính giá bồi thường. Đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT, lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H vào ngày 23/8/2012.

Như vậy, qua quá trình thực hiện giải toàn bộ thường quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H của Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T đã phân tích như trên, có thể thấy rằng trình tự, thủ tục bồi thường giải tỏa, bổi thường quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H là hoàn toàn trái pháp luật.

Giá bồi thường:

Vấn đề sau hơn hai năm (ngày 18/12/2014), ông Trần Văn H mới nhận được Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, bản áp giá bồi thường, trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T đều trả lời ông Trần Văn H thời hiệu khiếu nại được tính từ ngày ông Trần Văn H nhận quyết định là ngày 18/12/2014, nên rõ ràng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T ban hành và Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T có hiệu lực kể từ ngày 18/12/2014 và vì đây là quyết định hành chính áp dụng đối với ông Trần Văn H nên đương nhiên sẽ phát sinh hiệu lực khi ông Trần Văn H nhận được quyết định ngày 18/12/2014 và quyết định này hoàn toàn không có giá trị pháp lý khi UBND huyện T ban hành và trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên lưu trữ tại cơ quan mà không giao cho ông Trần Văn H.

Như vậy, căn cứ khoản 1, Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên-Môi trường “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng của lại đât bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì giá đất để tính bồi thường cho ông Trần Văn H phải là giá đất năm 2015 nhưng quyết định số 10492/QĐ-UBND, ngày 16/10/2012 của UBND huyện T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Hơn nữa, căn cứ khoản 2, Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Vì vậy ông Trần Văn H đề nghị bồi thường giá đất tại thời điểm bồi thường (thời điểm thu hồi đất) là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; khoản 1, Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 quy định về giá đất để tính bồi thường và xác định giá đất trong một số trường hợp cụ thể thì giá đất tại thời điểm thu hồi đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp hoặc giao cho cơ quan chức năng xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất.

Như vậy, Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B được phê duyệt từ năm 2010, được triển khai thực hiện từ cuối năm 2011 nhưng mãi đến hơn hai năm sau là ngày 18/12/2014 Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T mới tiến hành giao quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ để tiến hành bồi thường cho ông Trần Văn H, do đó việc để kéo dài chậm thực hiện bồi thường cho ông Trần Văn H, dẫn đến ông Trần Văn H phải khiếu nại để yêu cầu giải quyết đồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm bồi thường là lỗi của Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND huyện T, cho nên ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm bồi thường (thời điểm thu hồi đất) là hoàn toàn có cơ sở.

Trường hợp do địa phương không có quỹ đất để hoán đổi cho ông Trần Văn H thì phải xem xét điều chỉnh, tham mưu UBND tỉnh có phương án thẩm định lại giá đất để bồi thường cho người dân kịp thời, hạn chế gây thiệt hại cho người dân vì đây là trường hợp bồi thường chậm, lỗi thuộc về UBND thị xã T nhưng UBND tỉnh B, UBND thị xã T giải quyết khiếu nại khẳng định việc giải tỏa, bồi thường cho ông Trần Văn Hai là đúng quy định để né tránh trách nhiệm, gây bức xúc, làm giảm lòng tin của người dân và các cơ quan quản lý hành chính của địa phương, dẫn đến việc khiếu nại kéo dài.

Từ những nội dung trình bày trên cho thấy việc UBND thị xã T thực hiện bồi thường, giải tỏa quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H là trái pháp luật nhưng Chủ tịch UBND huyện (nay là thị xã T), Chủ tịch UBND tỉnh B giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn H tiếp tục khẳng định bồi thường, giải tỏa quyền sử dụng đất của ông Trần Văn H đã đúng quy định pháp luật. Do đó, ông Trần Văn H khởi kiện Ủy ban nhân dân thị xã T đến Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, với yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Hủy quyết định 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương;

- Hủy Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất;

- Hủy Quyết định số: 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;

- Hủy Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H;

- Hủy Quyết định 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1);

  • Hủy Quyết định 2731/QĐ-UBND ngày A 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

*Ông Trần Văn H thống nhất lời trình bày của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông.

*Bà Hà Thị P thống nhất lời trình bày của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông H.

*Tại bản tường trình của người đại diện hợp pháp của người bị kiện Ủy ban nhân dân thị xã T, Chủ tịch UBND thị xã T - ông Ngô Quang S trình bày:

  • Về cơ sở pháp lý, trình tự, thủ tục bồi thường công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh:

+ Ngày 20/9/2010, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Thông báo số 277/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án tỉnh lộ ĐT 747B, đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

+ Ngày 13/10/2011, UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2998/QĐ-UBND về việc phê duyệt Dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

+ Ngày 03/5/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Thông báo số 201/TB-UBND về việc điều chỉnh Thông báo số 277/TB-UBND ngày 20/9/2010 của UBND huyện T về việc thu hồi đất để thực hiện dự án tỉnh lộ ĐT 747B, đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

+ Ngày 27/10/2011, Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) tổ chức họp công khai Dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh tại xã K (nay là phường K).

+ Ngày 28/12/2011, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) kiểm kê đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Trần Văn H và ngày 13/8/2012, Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H với tổng số tiền là 1.518.515.550 đồng (Một tỷ năm trăm mười tám triệu năm trăm mười lăm nghìn năm trăm năm mươi đồng).

+ Ngày 10/5/2012 và ngày 11/5/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) tổ chức họp công khai dự thảo Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đoạn thuộc xã K). Đồng thời niêm yết công khai tại trụ sở UBND phường K và các Văn phòng khu phố nơi có đất bị ảnh hưởng công trình từ ngày 11/5/2012 đến ngày 31/5/2012 (có Biên bản làm việc).

+ Ngày 05/6/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) kết thúc niêm yết công khai Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đoạn thuộc phường K). Trong thời gian từ ngày 11/5/2012 đến ngày 31/5/2012.

+ Ngày 23/8/2012, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P thường trú tại Khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

+ Ngày 03/10/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Quyết định số 9858/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương).

+ Ngày 10/10/2012, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND K (nay là phường K) niêm yết công khai Quyết định số 9858/QĐ- UBND về việc phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (Đợt 1: Đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã K, huyện T, tỉnh Bình Dương) tại trụ sở UBND K (nay là phường K) và các Văn phòng khu phố nơi có đất bị ảnh hưởng công trình.

- Về việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P:

Ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có các thửa đất nằm trong công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh như sau:

+ Thửa đất số 160 diện tích trước khi thu hồi là 378m2 và thửa đất số 23 diện tích trước khi thu hồi là 1.113m2, tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 04029 ngày 04/8/2008.

+ Thửa đất số 68 diện tích trước khi thu hồi là 1.728 m2, tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất ONT+CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04041 ngày 04/8/2008.

+ Thửa đất số 337 diện tích trước khi thu hồi là 2.557 m2 tờ bản đồ số 33 tại xã K, loại đất CLN được UBND huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04040 ngày 04/8/2008.

Ngày 23/8/2012, UBND huyện T (nay là thị xã T) ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND thu hồi diện tích 2028,2 m2 thuộc một phần thửa đất số 160, 337, 68, 23 tờ bản đồ số 33 tại xã Khánh Bình của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, thường trú tại khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, để thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh, loại đất thu hồi là CLN: 2028,2 m2.

Ngày 19/9/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T đã mời hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P (theo Giấy mời số 112/GM-TN&MT) đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất. Tại buổi làm việc, UBND xã K đã lập biên bản các hộ dân không đến dự (trong đó có hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P). Cùng ngày, UBND xã K đã lập biên bản niêm yết, công khai danh sách các hộ dân có đất bị thu hồi kèm theo các quyết định thu hồi đất của các hộ dân (Biên bản làm việc ngày 26/9/2012).

Ngày 19/10/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T tiếp tục mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất (theo giấy mời số 112/GM-TN&MT lần 2). Tuy nhiên, ông Trần Văn H và bà Hà Thị P không đến làm việc theo thư mời.

Tài sản gắn liền với đất trong phạm vi giải tỏa có 04 cây xà cừ (đường kính > 20) đã được kiểm kê trong Biên bản kiểm kê số 316/BBKK ngày 28/12/2011 của Trung tâm Phát triển quỹ đất.

Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P như sau:

+ Bồi thường về đất CLN: 2028,2 m2 x 168.000 đ/m2 = 340.737.600 đồng

+ Hỗ trợ đất nắn tuyến: 103 m2 x 941.850 đ/m2 = 97.010.550 đồng

+ Hỗ trợ đất NN (=70%): 521,5m2 x 941.850 đ/m2 = 491.174.775 đồng

+ Hỗ trợ đất NN (=50%): 875,5 m2 x 672.750 đ/m2 = 588.992.625 đồng

+ Cây trồng trên đất: 600.000 đồng

=> Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 1.518.515.550 đồng

Ngày 16/10/2012, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Quyết định số 10492/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là: 1.518.515.550 đồng. Trong đó:

+ Bồi thường về đất: 340.737.600 đồng

+ Hỗ trợ về đất: 1.177.177.950 đồng

+ Cây cối: 600.000 đồng

Ngày 18/12/2014, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn H.

Ngày 21/3/2016, UBND thị xã T ban hành Thông báo số 187/TB-UBND ngày 21/3/2016 về việc nhận tiền bồi thường và bàn giao đất thu hồi. Ngày 24/3/2016, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp UBND phường K công bố và bàn giao Thông báo trên cho ông Trần Văn H. Kết quả ông H đã nhận thông báo nhưng không đồng ý giá bồi thường, đang khiếu nại tại UBND tỉnh, yêu cầu gặp Chủ tịch UBND thị xã đối thoại.

- Về quá trình giải quyết đơn kiến nghị:

Ngày 24/12/2014, ông Trần Văn H làm đơn kiến nghị xem xét việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2899,2m2 đất của ông bị thu hồi theo Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 thuộc Công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh.

Ngày 29/5/2015, UBND thị xã T ban hành Công văn số 3131/UBND-TD về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H, cụ thể như sau:

+ Đối với ý kiến tại sao đến nay, hơn 2 năm kiểm kê, mới đưa quyết định bồi thường và bảng áp giá cho ông, trong khi quyết định có ghi rõ ông có quyền khiếu nại trong vòng 90 ngày: Việc này nguyên nhân do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bổ cho Dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông Trần Văn H đến để giao Quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Về thời hiệu khiếu nại: Khoản 3 Điều 2 Quyết định số 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T quy định ông Trần Văn H và bà Hà Thị P có quyền khiếu nại quyết định này trong thời hạn 90 (chín mươi) ngày kể từ ngày nhận quyết định. Ông Trần Văn H đã nhận quyết định bồi thường vào ngày 18/12/2014. Theo đó, thời hiệu khiếu nại Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 được tính từ ngày ông Trần Văn H ký nhận Quyết định số 10492/QĐ- UBND (ngày 18/12/2014).

+ Về trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất đã thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục được quy định tại Điều 46 và điều 47 Quyết định số 87/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 của UBND tỉnh B. Trong quá trình thực hiện Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất đã phối hợp với UBND phường K tổ chức họp dân công khai Phương án bồi thường, niêm yết công khai Phương án bồi thường (có biên bản họp dân, biên bản công khai).

+ Ông Trần Văn H đề nghị thẩm định lại giá đất, thẩm định lại phương án bồi thường, hỗ trợ theo Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012, nhưng đến ngày 18/12/2014 mới giao cho ông là không có căn cứ để xem xét giải quyết vì Phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 9858/QĐ- UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện (nay là thị xã) được niêm yết công khai đúng trình tự, thủ tục; đơn giá bồi thường, hỗ trợ trong Phương án bồi thường được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên-Môi trường: “giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm ”.

+ Đối với ý kiến nếu không thể điều chỉnh giá đất theo giá thị trường, đề nghị chủ đầu tư và chính quyền địa phương có phương án đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định: Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Do địa phương không có quỹ đất để bồi thường nên các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT- 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Ông Trần Văn H đề nghị đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và có giá trị tương đương là không thực hiện được.

Như vậy, việc bồi thường, hỗ trợ đối với diện 2899,2m2 đất bị thu hồi của ông Trần Văn Hai là đúng theo quy định.

Ngày 6/9/2016, UBND thị xã T tổ chức gặp gỡ, đối thoại với ông Trần Văn H về một số nội dung liên quan đến công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng để triển khai thực hiện công trình Nâng cấp, mở rộng đường ĐT- 747B. Kết quả yêu cầu ông Trần Văn H gửi đơn tại Ban Tiếp công dân thị xã để được viết biên nhận và giải quyết theo quy định.

Ngày 18/11/2016, Phòng Tài nguyên và Môi trường tổ chức gặp gỡ, đối thoại với ông Trần Văn H. Kết quả đối thoại ông Trần Văn H không đồng ý các Quyết định thu hồi đất, Quyết định cũ đã ban hành trước dây, tôi chỉ đồng ý nhận các Quyết định mới ban hành năm 2015. Nếu không ban hành các Quyết định mới năm 2015, yêu cầu sớm ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu để ông có quyền khiếu nại lên cấp có thẩm quyền.

Ngày 30/12/2016, Chủ tịch UBND thị xã ban hành Quyết định số 6465/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lầu đầu), với nội dung:

+ Bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H đối với việc xem xét hủy Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T; hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T; xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao Quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

+ Giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T.

Ngày 17/02/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 371/QĐ- UBND về việc giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại, trong đó giao Thanh tra tỉnh xác minh làm rõ nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H.

Ngày 09/3/2017 và ngày 17/4/2017, Thanh tra tỉnh tổ chức làm việc với UBND thị xã T về một số vấn đề liên quan đến nội dung khiếu nại của ông Trần Văn H.

Ngày 11/10/2017, Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn của ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T (lần hai).

Từ những căn cứ và nội dung nêu trên, cho thấy việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P là đúng theo phương án bồi thường đã được phê duyệt và đúng theo quy định, Chủ tịch UBND thị xã T ban hành Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 là đúng quy định của pháp luật. Do đó, UBND thị xã đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B xem xét, giải quyết vụ án theo quy định.

*Tại bản giải trình của người đại diện hợp pháp của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B là ông Mai Hùng D - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B trình bày:

Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 2998/QĐ- UBND ngày 13/10/2011; UBND huyện Tân Uyên phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012.

Ngày 20/9/2011, UBND huyện (nay là thị xã) T ban hành Thông báo số 201/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án tỉnh lộ ĐT747B đoạn Bình Chuẩn - Hội Nghĩa.

Ngày 28/12/2011, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T (nay Chi nhánh Trung tâm Phát triển Quỹ đất thị xã T) tiến hành kiểm kê đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Trần Văn H (Biên bản kiểm kê số 316/BBKK).

Ngày 13/8/2012, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T lập Biên bản áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H (Bảng áp giá số 61/TTPTQĐ-KT). Trên cơ sở đó, UBND huyện T ban hành Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P, với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 1.518.515.550 đồng, trong đó:

+ Thửa đất số 160: Diện tích thu hồi 292m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 49.056.000 đồng, hỗ trợ nắn tuyến: 37m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 34.848.450 đồng.

+ Thửa đất số 23: Diện tích thu hồi 355m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 59.640.000 đồng, hỗ trợ nắn tuyến: 66m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 62.162.100 đồng.

+ Thửa đất số 337: Diện tích thu hồi 859,7m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 144.429.600 đồng.

+ Thửa đất số 68: Diện tích thu hồi 521,5m2 (đất cây lâu năm) x 168.000 đồng/m2 = 87.612.000 đồng, hỗ trợ đất nông nghiệp do trong cùng thửa đất có nhà ở là: 521,5m2 x 941.850 đồng/m2 (70% x 1.345.500 đồng/m2) = 491.174.775 đồng.

+ Phần diện tích đất nông nghiệp còn lại được hỗ trợ: 875,5m2 x 672.750 đồng/m2 (50% x 1.345.500 đồng/m2) = 588.992.625 đồng.

+ Bồi thường cây trái, hoa màu trên đất: 600.000 đồng.

Ngày 23/8/2012, UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P.

Ngày 19/9/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T đã mời hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P (theo Giấy mời số 112/GM-TN&MT) đến UBND xã K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất. Tại buổi làm việc, UBND xã K lập biên bản các hộ dân không đến dự (trong đó có hộ ông Trần Văn H và bà Hà Thị P). Cùng ngày, UBND xã K đã lập biên bản niêm yết, công khai danh sách các hộ dân có đất bị thu hồi, kèm theo các quyết định thu hồi đất của các hộ dân (Biên bản làm việc ngày 26/9/2012).

Ngày 16/10/2012, UBND huyện T ban hành Quyết định số 10492/QĐ- UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P với tổng số tiền là 1.518.515.550 đồng.

Ngày 19/10/2012, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T tiếp tục mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất (theo giấy mời số 112/GM-TN&MT- lần 2). Tuy nhiên, ông Trần Văn H và bà Hà Thị P không đến làm việc theo thư mời.

Ngày 15/12/2014, Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T mời hộ ông Trần Văn H đến nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Ngày 18/12/2014, hộ ông Trần Văn H có đến làm việc theo thư mời nhưng gia đình ông H không đồng ý nhận tiền bồi thường và các chính sách hỗ trợ.

Không đồng ý với kết quả áp giá bồi thường, hỗ trợ, ông Trần Văn H khiếu nại Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của Chủ tịch UBND huyện T và yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, bồi thường 2028,2m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương.

- Việc Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, là không có cơ sở xem xét, giải quyết, vì:

Dự án Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh phê duyệt Dự án tổng thể tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011 trên cơ sở Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ (quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư); theo đó, tại Điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, để đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đến cho người dân, cơ quan chức năng của UBND huyện T cũng đã 02 lần mời ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đến UBND K để công bố, bàn giao quyết định thu hồi đất (lần 1 ngày 19/9/2012; lần 2 ngày 19/10/2012), nhưng cả 02 lần ông Trần Văn H, bà Hà Thị P đều không đến và UBND xã K đã lập Biên bản, niêm yết công khai danh sách các hộ bị thu hồi đất, kèm theo quyết định thu hồi đất tại trụ sở UBND xã K.

- Về nội dung ông Trần Văn H yêu cầu bồi thường 2.028,2m2 đất theo giá thị trường tại thời điểm UBND thị xã T bàn giao quyết định thu hồi đất hoặc hoán đổi đất khác có cùng mục đích sử dụng và vị trí tương đương, là không có cơ sở xem xét, giải quyết, vì: UBND huyện T đã áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H và bà Hà Thị P đúng theo phương án bồi thường, hỗ trợ mà UBND huyện T phê duyệt tại Quyết định số A9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 và trong Phương án trên cũng không quy định về việc hoán đổi đất, hơn nữa địa phương cũng không có quỹ đất để hoán đổi.

- Căn cứ Khoản 2, Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 28/9/2009 của Chính phủ, quy định: “Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất...”; đối chiếu quy định trên, thì Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện T thực hiện đúng quy định và áp giá bồi thường theo đơn giá được phê duyệt năm 2012 (cùng thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất).

Từ những nội dung trên, việc Chủ tịch UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 giải quyết bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H đối với Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2016 của Chủ tịch UBND thị xã T, là đúng quy định pháp luật.

Đến nay, Chủ tịch UBND tỉnh B vẫn giữ nguyên quan điểm giải quyết tại Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017. Đồng thời, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương tuyên xử bác đơn khởi kiện của ông Trần Văn H; công nhận nội dung Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh là đúng theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2018/HC-ST ngày 20 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H đối với yêu cầu: Hủy Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương; Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất; Quyết định số: 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H; Quyết định số 6465/QĐ- UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1); Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 23/7/2018 người khởi kiện ông Trần Văn H kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm nêu trên.

Tại đơn kháng cáo và trước phiên tòa phúc thẩm hôm nay người khởi kiện ông Trần Văn H đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm hủy các Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T; Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T; Quyết định số: 10492/QĐ- UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T; Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T; Quyết định số 6465/QĐ- UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T; Quyết định số 2731/QĐ- UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B.

Người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh B, UBND thị xã T và Chủ tịch UBND thị xã T vắng mặt.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện cho rằng các quyết định thu hồi đất có sai sót về trình tự thủ tục ban hành; các quyết định phê duyệt phương án bồi thường và bồi thường, các quyết định giải quyết khiếu nại là trái quy định bởi vì hai quyết định này được ban hành từ năm 2012 nhưng đến năm 2014 mới giao cho ông H nhưng lại áp giá năm 2012. Từ đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện sửa bản án sơ thẩm và hủy các quyết định nói trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 15/2018/HC-ST ngày 20/7/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện và ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2]. Người khởi kiện ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu Tòa án:

  • Hủy Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương.
  • Hủy Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất.
  • Hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
  • Hủy Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn Hai.

- Hủy Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1).

- Hủy Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

[3]. Xét thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành các quyết định bị khiếu kiện: Căn cứ khoản 2 Điều 44 Luật đất đai năm 2003; Điều 18, Điều 40 của Luật Khiếu nại; Điều 126, Điều 127 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì các quyết định nói trên được ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

[4]. Về nội dung:

[5]. Công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT-747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh được UBND tỉnh Bình Dương phê duyệt dự án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 13/10/2011; UBND huyện T phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 có kèm theo phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư. Ngày 13/8/2012 Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên lập biên bản áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn H.

[6]. Ngày 23/8/2012 UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P và Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng. Ông Trần Văn H cho rằng các Quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 20/12/2011 nhưng ông H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông bị giải tỏa, không xác định được ranh mốc phần đất bị giải tỏa thì làm sao xác định được diện tích đất bị giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất và tính giá bồi thường; đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra Quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H.

[7]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn Hai. Ông Trần Văn H không đồng ý giá bồi thường tại Quyết định số 10492/QĐ- UBND vì cho rằng: Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì ông H phải được bồi thường theo giá đất năm 2015, nhưng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Mặt khác, theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa nhận được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Do đó, ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường giá đất tại thời điểm thu hồi đất là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[8]. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ- CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ và khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT- BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giá đất để tính bồi thường và xác định giá đất trong một số trường hợp cụ thể thì giá đất tại thời điểm thu hồi đất chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất.

[9]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất mới công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương cho ông Trần Văn H. Lý do sau hai năm mới triển khai quyết định bồi thường theo Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Tân Uyên là do từ tháng 10/2012 đến tháng 11/2014 nguồn vốn phân bố cho dự án không đủ để chi trả bồi thường cho dân nên không mời ông H đến để giao quyết định và chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Như vậy việc ông Trần Văn H không được nhận bồi thường tại thời điểm có Quyết định thu hồi đất số 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND huyện T không phải lỗi từ phía ông H mà lỗi từ cơ quan chủ quản như đã nêu trên.

[10]. Ông Trần Văn H không đồng ý nhận tiền bồi thường do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T thực hiện việc giải tỏa, bồi thường đối với 2899,2m2 của ông Trần Văn H trái các quy định của pháp luật về giải tỏa, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nên ông Trần Văn H có đơn khiếu nại việc áp giá bồi thường, hỗ trợ đối với 2899,2m2 đất của ông H đến UBND thị xã T.

[11]. Ngày 29/5/2015 UBND thị xã T ban hành Công văn số 3131/UBND- TD trả lời đơn của ông Trần Văn H, cho rằng Trung tâm phát triển quỹ đất đã bồi thường, hỗ trợ với diện tích 2899,2m2 đất của ông Trần Văn H bị thu hồi là đúng trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường.

[12]. Không đồng ý với kết quả giải quyết của UBND thị xã T tại Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015, ông Trần Văn H tiếp tục khiếu nại đến UBND thị xã T yêu cầu hủy bỏ Công văn số 3131/UBND-TD, đồng thời yêu cầu UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H theo đúng quy định của pháp luật; hủy Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND huyện T về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ tái định cư và xác định lại giá đất bồi thường theo giá đất thị trường tại thời điểm UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất cho ông Trần Văn H hoặc hoán đổi đất khác có cùng vị trí, mục đích sử dụng và giá trị tương đương.

[13]. Ngày 30/12/2015 Chủ tịch UBND thị xã T ban hành Quyết định số 6465/QĐ- UBND bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, giữ nguyên Công văn số 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T.

[14]. Không đồng ý với việc UBND thị xã T giải quyết khiếu nại trên, ngày 11/10/2017 ông Trần Văn H khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh B.

[15]. Tại Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B bác đơn khiếu nại của ông Trần Văn H, với nội dung:

[16]. Việc ông Trần Văn H yêu cầu bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất là không có cơ sở xem xét, giải quyết vì Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ không quy định phải bàn giao trực tiếp quyết định thu hồi đất, chỉ quy định gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên trong trường hợp này, Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Tân Uyên không “gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” đến ông Trần Văn H là người có đất bị thu hồi mà chỉ mời ông H đến UBND K để công bố và bàn giao quyết định thu hồi đất là trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra theo khoản 1 Điều 93 Luật đất đai năm 2013 quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi” và khoản 2 Điều 93 quy định “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả”. Như vậy có căn cứ pháp lý để xem xét xác định việc ông Trần Văn H khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định như trên là đúng quy định của pháp luật, cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H.

[17] Từ các nhận định nêu trên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án sơ thẩm hủy các quyết định về thu hồi đất, về phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư và quyết định giải quyết khiếu nại, giao cho UBND thị xã T giải quyết lại.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án hành chính sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều: 30, 32, khoản 2 Điều 79, 116, 134, khoản 1 Điều 158, khoản 1 Điều 164, điểm a khoản 2 Điều 193 và Điều 194 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 18, Điều 40 của Luật Khiếu nại; Điều 41, 42 của Luật Đất đai năm 2003; khoản 2, Điều 14, Điều 31 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 28/9/2009 của Chính phủ; khoản 2 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn H đối với Quyết định số 9858/QĐ-UBND ngày 03/10/2012 của UBND huyện T, tỉnh Bình Dương về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình: nâng cấp, mở rộng đường ĐT 747B đoạn từ nút giao Miếu Ông Cù đến điểm giao với đường Thủ Biên - Cổng Xanh (đợt 1: đoạn từ cầu Khánh Vân đến hết khu công nghiệp Nam Tân Uyên thuộc địa phận xã (nay phường) K, huyện (nay thị xã) T, tỉnh Bình Dương.

Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn H, sửa Bản án hành chính sơ thẩm. Hủy các Quyết định hành chính sau đây của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương:

- Quyết định số: 8493/QĐ-UBND ngày 23/8/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc thu hồi đất;

- Quyết định số: 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;

- Công văn số: 3131/UBND-TD ngày 29/5/2015 của UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc trả lời đơn của ông Trần Văn H;

- Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/12/2015 của Chủ tịch UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 1);

- Quyết định số 2731/QĐ-UBND ngày 11/10/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Trần Văn H (lần 2).

2. Về án phí:

- Án phí hành chính sơ thẩm:

Ông Trần Văn H không phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm, hoàn trả cho ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010852 ngày 29/11/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.

Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B; Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương mỗi người phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hành chính sơ thẩm.

- Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trần Văn H không phải chịu 300.000 đồng và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0026781 ngày 25/7/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ tuyên án.

NỘI DUNG ÁN LỆ:

“[6]. Ngày 23/8/2012 UBND huyện T ban hành Quyết định số 8493/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của ông Trần Văn H và bà Hà Thị P và Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần Văn H với tổng số tiền 1.518.515.550 đồng. Ông Trần Văn H cho rằng các Quyết định này được ban hành trên những căn cứ trái luật, hồ sơ khống kèm theo Quyết định nêu trên là biên bản kiểm kê đất và tài sản trên đất lập ngày 20/12/2011 nhưng ông H hoàn toàn không nhận được biên bản kiểm kê tài sản có bảng vẽ hiện trạng vị trí đất của ông bị giải tỏa, không xác định được ranh mốc phần đất bị giải tỏa thì làm sao xác định được diện tích đất bị giải tỏa là bao nhiêu để thu hồi đất và tính giá bồi thường; đồng thời bản áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số 61/TTPTQĐ-KT lập ngày 13/8/2012 còn được thực hiện trước khi UBND huyện T ra Quyết định thu hồi đất của ông Trần Văn H.

[7]. Ngày 18/12/2014 Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất công bố và bàn giao Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 cho ông Trần Văn H. Ông Trần Văn H không đồng ý giá bồi thường tại Quyết định số 10492/QĐ-UBND vì cho rằng: Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm” thì ông H phải được bồi thường theo giá đất năm 2015, nhưng Quyết định số 10492/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND thị xã T lại áp giá theo giá đất tại thời điểm năm 2012. Mặt khác, theo khoản 2 Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định thì giá đất tính bồi thường là giá đất tại thời điểm quyết định thu hồi đất và hiện nay ông Trần Văn H vẫn chưa được Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã T, UBND thị xã T giao quyết định thu hồi đất. Do đó, ông Trần Văn H đề nghị được bồi thường giá đất tại thời điểm thu hồi đất là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.”

DO ĐỀ XUẤT ÁN LỆ

(Bản án hành chính phúc thẩm số 427/2019/HC-PT ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về việc “khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất” giữa Người khởi kiện là ông Trần Văn H; Người bị kiện là UBND tỉnh B UBND thị xã T, tỉnh Bình Dương).

Trong thực tiễn giải quyết các vụ án án hành chính liên quan đến việc bồi thường khi thu hồi đất hiện nay có rất nhiều trường hợp cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất, nhưng lại chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất. Do đó, khi công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất thì giá đất đã có sự thay đổi, người bị thu hồi đất không đồng ý với giá đất bồi thường tại thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, dẫn đến khiếu kiện hành chính.

Theo khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm”.

Trong vụ án này, UBND huyện T ban hành các Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất từ năm tháng 8/2012. Tuy nhiên, do không có kinh phí để chi trả bồi thường nên đến tháng 12/2014 thì UBND huyện T mới công bố và giao Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người bị thu hồi đất, dẫn đến giá đất được bồi thường tại thời điểm ra quyết định thu hồi và thời điểm công bố và giao quyết định cho người bị thu hồi đất có sự chênh lệch lớn. Người khởi kiện là người bị thu hồi đất yêu cầu được bồi thường theo giá đất tại thời điểm nhận quyết định thu hồi. Trường hợp này, Tòa án xác định lỗi chậm công bố và giao các quyết định này cho người bị thu hồi đất là thuộc cơ quan có thẩm quyền nên đã xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất.

Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học thấy rằng đây là tình huống vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, người bị thu hồi đất khiếu nại các Quyết định hành chính theo thủ tục hành chính thường không được chấp nhận. Do đó, khi người bị thu hồi đất khởi kiện hành chính thì giải pháp mà Tòa án đưa ra trong bản này là xác định giá đất để làm căn cứ bồi thường cho người bị thu hồi đất là giá đất tại thời điểm thu hồi đất là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất. Tình huống này có thể thể xem xét phát triển án lệ để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong các vụ án có tình huống pháp lý tương tự.

Nguồn Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn)

[1] Án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.

Tác động của thay đổi thuế quan giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đến các hợp đồng ký kết sử dụng điều khoản Incoterm

Ngày 02/4/2025, Chính phủ Hoa Kỳ chính thức công bố việc áp dụng mức thuế nhập khẩu đối ứng lên tới 46% đối với hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam có hiệu lực kể từ ngày 09/4/2025. Đây là một quyết định đơn phương nằm trong chiến lược thương mại mới của Hoa Kỳ với lý do nhằm “đối ứng” lại các mức thuế mà họ cho rằng các quốc gia, bao gồm Việt Nam, đang áp đặt lên hàng hóa của Mỹ.

Thông báo này đã tạo ra tác động tức thời và sâu rộng trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các đơn vị đang có hoạt động xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.

Với các hợp đồng đã ký kết nhưng chưa thực hiện, hoặc đang trong quá trình đàm phán, sự thay đổi thuế quan này đặt ra nhiều thách thức pháp lý và thương mại, từ việc xác định nghĩa vụ chịu thuế, cơ chế điều chỉnh giá, cho đến nguy cơ vi phạm hợp đồng hoặc tổn thất tài chính.

1. Nhóm D – Người bán gánh toàn bộ chi phí và rủi ro (DAP, DDP, DPU)

1.1 DDP – Delivered Duty Paid

Đây là điều kiện rủi ro cao nhất trong bối cảnh hiện tại. Theo DDP, người bán (doanh nghiệp Việt Nam) có nghĩa vụ giao hàng đến tận nơi do bên mua chỉ định và chịu toàn bộ thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, chi phí thông quan tại Hoa Kỳ.

Doanh nghiệp Việt phải trực tiếp thanh toán mức thuế lên đến 46%, điều này có thể khiến hợp đồng bị lỗ nặng nếu không có điều khoản điều chỉnh giá.

Nếu hàng đã được gửi hoặc đang trong quá trình vận chuyển, việc thương lượng lại là cực kỳ khó khăn.

1.2 DAP – Delivered at Place

Người bán giao hàng đến địa điểm bên mua chỉ định nhưng người mua chịu trách nhiệm thông quan và thuế nhập khẩu.

Nếu hợp đồng không ghi rõ nghĩa vụ thuế, hoặc người mua từ chối nhận hàng do chi phí phát sinh, có thể dẫn đến tranh chấp.

Nếu đối tác ở Hoa Kỳ yêu cầu điều chỉnh sang DDP nhưng không tăng giá – điều này sẽ chuyển rủi ro về phía doanh nghiệp Việt Nam nếu không được đàm phán rõ ràng.

2. Nhóm C – Người bán chịu chi phí vận chuyển, người mua chịu rủi ro và thuế (CIF, CFR, CIP, CPT)

2.1 CIF – Cost, Insurance and Freight / CFR – Cost and Freight

Người bán chịu chi phí vận chuyển và bảo hiểm đến cảng đích, nhưng nghĩa vụ về thuế nhập khẩu và thông quan vẫn thuộc về người mua.

Nếu hợp đồng nêu rõ người mua chịu thuế thì doanh nghiệp Việt ít rủi ro hơn, nhưng vẫn có nguy cơ bị ép giá, từ chối nhận hàng hoặc đòi chia sẻ chi phí.

Doanh nghiệp cần kiểm tra điều khoản “chuyển giao rủi ro” đã ghi nhận đúng thời điểm hàng lên tàu chưa – để tránh tranh chấp trong quá trình vận chuyển.

2.2 CIP / CPT

Tương tự CIF/CFR, nhưng áp dụng cho mọi phương thức vận tải. Người bán trả cước phí (và bảo hiểm nếu CIP), nhưng người mua chịu rủi ro và thuế nhập khẩu.

Với điều khoản này, nhìn chung, doanh nghiệp Việt chỉ bị ảnh hưởng gián tiếp về quan hệ thương mại hoặc chi phí phát sinh nếu đối tác từ chối nhận hàng.

2.3 CIF – Cost, Insurance and Freight / CFR – Cost and Freight

Theo quy định của Incoterms 2020, người bán chịu trách nhiệm vận chuyển hàng hóa đến cảng đích, bao gồm cả chi phí vận chuyển (và bảo hiểm nếu là CIF). Tuy nhiên, rủi ro pháp lý và nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu được chuyển sang người mua kể từ thời điểm hàng được giao cho hãng vận chuyển tại cảng đi.

Người bán không chịu trách nhiệm về thuế nhập khẩu, cũng không bị ràng buộc pháp lý nếu hàng hóa bị từ chối tại cảng ở Hoa Kỳ.

Tuy rủi ro pháp lý đã chuyển sang người mua nhưng vẫn có 1 số rủi ro đối với người bán nếu người mua từ chối nhận hàng vì chi phí thuế quá cao, người bán có thể phải gánh thêm:

    • Chi phí lưu kho, lưu bãi tại cảng đích.
    • Chi phí tái xuất, tiêu hủy hoặc đưa hàng quay trở lại.
    • Phải chấp nhận thương lượng lại trong thế bị động.

3. Nhóm F – Người mua chủ động vận chuyển và chịu thuế nhập khẩu (FOB, FCA, FAS)

3.1 FOB – Free On Board

Đây là điều khoản an toàn và phổ biến nhất hiện nay. Người bán giao hàng lên tàu tại cảng Việt Nam; người mua chịu mọi chi phí sau khi hàng đã lên tàu, bao gồm thuế nhập khẩu tại Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, vẫn cần cảnh báo: nếu đối tác Mỹ bị ảnh hưởng lớn bởi thuế, họ có thể đề nghị thay đổi điều khoản giao hàng sang DDP hoặc CIF, chuyển thêm rủi ro về phía Việt Nam.

3.2 FCA – Free Carrier

Giao hàng tại địa điểm chỉ định (thường là kho hoặc cảng Việt Nam). Tương tự FOB, người mua chịu trách nhiệm từ khi hàng được giao cho đơn vị vận chuyển.  Điều khoản này được khuyến nghị sử dụng trong bối cảnh rủi ro thuế tăng cao.

Doanh nghiệp cần ghi rõ điểm giao hàng và thời điểm chuyển rủi ro trong hợp đồng để tránh tranh cãi.

4. Nhóm E – EXW (Ex Works):

EXW là điều kiện trong đó người bán chỉ chịu trách nhiệm chuẩn bị hàng hóa tại kho hoặc cơ sở sản xuất, và toàn bộ chi phí, rủi ro từ đó về sau do người mua gánh chịu. Về mặt pháp lý, đây là điều kiện “an toàn nhất” cho người bán, vì gần như không chịu trách nhiệm gì ngoài việc chuẩn bị hàng hóa đúng chất lượng, số lượng và thời gian.

Tuy nhiên, EXW hiếm khi được áp dụng trong xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam, trừ khi người mua là:

    • Tập đoàn đa quốc gia có chi nhánh hoặc đại diện tại Việt Nam.
    • Hoặc đã có sẵn đơn vị giao nhận (forwarder) chuyên trách tại địa phương.

Với khách hàng là doanh nghiệp nước ngoài nhỏ hoặc không am hiểu thị trường Việt Nam thì họ càng từ chối điều kiện EXW vì:

  • Khó xử lý logistics đầu xuất nếu không có người đại diện tại chỗ.
  • Không kiểm soát được quy trình hải quan xuất khẩu tại Việt Nam.

 

5. Danh sách Incoterms nên dùng – không nên dùng theo từng kịch bản xuất khẩu sang Mỹ

 

Kịch bản

Incoterms nên dùng

Incoterms không nên dùng

Lý do / Ghi chú

1. Đơn hàng mới, chưa ký hợp đồng

FOB, FCA, CIF

DDP, DAP

Tránh gánh thuế 46% không lường trước. Ưu tiên điều kiện chuyển rủi ro sớm và không phải chịu thuế nhập khẩu.

2. Hàng sắp giao, hợp đồng đã ký theo DDP hoặc DAP

Thương lượng lại FOB/FCA nếu được

DDP (nếu không có điều khoản điều chỉnh giá)

DDP gây rủi ro cao nếu người bán Việt Nam không dự liệu trước thuế nhập khẩu. Nên thương lượng lại hoặc bổ sung phụ lục chia sẻ chi phí.

3. Nếu khách hàng là đối tác Hoa Kỳ lớn, có chi nhánh/logistics tại Việt Nam

EXW, FCA

DDP

EXW phù hợp nếu bên mua có năng lực xử lý logistics tại Việt Nam. Nếu không, FCA là lựa chọn linh hoạt và an toàn hơn.

4. Đối tác không muốn chịu trách nhiệm vận chuyển / thủ tục đầu Việt Nam

CIF, CFR

EXW

 

 

 

 

 

Tránh EXW trong trường hợp người mua yếu về logistics hoặc không có đại diện tại Việt Nam. CIF giúp người bán kiểm soát vận chuyển, nhưng cần rõ trách nhiệm thuế.

5. Lo sợ rủi ro người mua không nhận hàng do thuế cao

FOB, FCA

CIF, DAP, DDP

Giao hàng tại cảng Việt Nam sẽ giúp người bán hạn chế rủi ro hậu cần nếu người mua từ chối nhận hàng ở Mỹ.

6. Doanh nghiệp Việt xuất hàng qua đại lý xuất khẩu trung gian

FCA

DDP

FCA linh hoạt cho giao nhận nội địa. DDP sẽ khiến doanh nghiệp Việt chịu toàn bộ rủi ro trong khi ít kiểm soát thị trường đầu Mỹ.

7. Giao hàng theo từng lô, hợp đồng dài hạn

FOB + điều khoản điều chỉnh giá

DDP nếu không có cơ chế bảo lưu

Với hợp đồng dài hạn, cần tránh DDP cố định giá. Nên dùng FOB kèm điều khoản điều chỉnh theo biến động thuế quan.

8. Sản phẩm có giá trị cao, độ rủi ro lớn (như máy móc, thiết bị công nghiệp)

CIP, FCA

EXW, DDP

CIP có bảo hiểm và kiểm soát vận chuyển tốt hơn. EXW quá rủi ro nếu người mua không chuyên nghiệp. DDP lại khiến người bán chịu gánh nặng thuế lớn.

 

6. Tổng kết

FOB / FCA là lựa chọn an toàn và linh hoạt trong hầu hết các tình huống hiện tại, đặc biệt khi thuế nhập khẩu tăng cao và thị trường biến động.

DDP chỉ nên dùng khi người bán có năng lực tài chính mạnh và kiểm soát được chi phí thuế nhập khẩu tại Mỹ – trong thực tế hiện nay, điều này rất hiếm.

CIF phù hợp nếu người bán vẫn muốn cung cấp dịch vụ trọn gói, nhưng cần ràng buộc trách nhiệm người mua rõ ràng trong hợp đồng về thuế và nhận hàng.

Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với sản phẩm thép mạ từ Trung Quốc và Hàn Quốc (Mã vụ việc: AD19)

Ngày 01/04/2025, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 914/QĐ-BCT về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời đối với một số sản phẩm thép mạ có xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc.

Hàng hóa bị áp thuế có mã HS:

7210.41.11, 7210.41.12, 7210.41.19, 7210.49.11, 7210.49.14, 7210.49.15, 7210.49.16, 7210.49.17, 7210.49.18, 7210.49.19, 7210.50.00, 7210.61.11, 7210.61.12, 7210.61.19, 7210.69.11, 7210.69.19, 7210.90.10, 7210.90.90, 7212.30.11, 7212.30.12, 7212.30.13, 7212.30.14, 7212.30.19, 7212.50.14, 7212.50.19, 7212.50.23, 7212.50.24, 7212.50.29, 7212.50.93, 7212.50.94, 7212.50.99, 7212.60.11, 7212.60.12, 7212.60.19, 7225.92.90, 7226.99.11, 7226.99.91

Mức thuế tạm thời

Đối với hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc: Lên tới 37,13%

Đối với hàng hóa có xuất xứ từ Hàn Quốc: Lên tới 15,67%

Vụ việc trước được khởi xướng điều tra bởi các doanh nghiệp:

  • Công ty CP Tập đoàn Hoa Sen
  • Công ty CP Thép Nam Kim
  • Công ty Tôn Phương Nam
  • Công ty CP Tôn Đông Á
  • Công ty CP China Steel Sumikin
  • Nippon Steel Việt Nam

Xem và tải Quyết định số 914/QĐ-BCT tại đây: https://caselaw.vn/van-ban-phap-luat/411431-quyet-dinh-so-914-qd-bct-cua-bo-truong-bo-cong-thuong-ap-dung-thue-chong-ban-pha-gia-tam-thoi-doi-voi-mot-so-san-pham-thep-ma-co-xuat-xu-tu-cong-hoa-nhan-dan-trung-hoa-va-dai-han-dan-quoc

Kỹ năng nghề luật có được từ thời thực tập – hành trang giúp sự nghiệp về sau của bạn dù chưa ai từng kể

Không ai bắt đầu nghề luật bằng những bản hợp đồng triệu đô hay những phiên tranh tụng căng thẳng. Đã bao giờ bạn ao ước, ngay sau khi tốt nghiệp, sẽ được tham gia những công việc “chuyên môn cao” như tư vấn pháp lý, soạn thảo hợp đồng, hay trực tiếp tranh tụng tại tòa?

Thực tế thường không màu hồng đến vậy.

Hầu hết đều khởi đầu từ một góc bàn nhỏ, vài tập hồ sơ dày cộp, và những công việc không tên. Những ngày đầu thực tập hoặc mới đi làm thường gắn liền với việc in tài liệu, sắp xếp hồ sơ, gửi công văn, hỗ trợ làm slide báo giá… Toàn những việc có vẻ nhàm chán, tưởng chừng không mấy liên quan đến kiến thức đã học ở trường – và càng khác xa hình ảnh luật sư mặc vest chỉnh tề, lập luận sắc bén như trên phim ảnh.

Nhưng chính trong những công việc tưởng chừng tẻ nhạt đó, sự khác biệt giữa người thành công và người không thành đã bắt đầu manh nha hình thành. Có người làm cho xong, cũng có người coi đó là cơ hội để học nghề từ những điều nhỏ nhất. Cũng từ đó, những kỹ năng nghề luật cho sự nghiệp sau này dần được đặt nền móng.

1. “Không chọn việc” khi thực tập

Có được cơ hội thực tập tại các công ty luật, văn phòng luật sư là một niềm may mắn đối với các bạn sinh viên. Không phải ai cũng được giao ngay những công việc “có tên” trong giai đoạn thực tập. Trên thực tế, phần lớn thực tập sinh sẽ bắt đầu với những đầu việc rất cơ bản: in tài liệu, đi công chứng, đóng dấu hồ sơ, hỗ trợ chuẩn bị cuộc họp, hoặc đơn giản là... đi giao tài liệu cho khách hàng.

Những công việc đó thường không hào nhoáng, không tạo ra cảm giác được làm việc như những luật sư mà bạn có thể kỳ vọng. Tuy nhiên, cách mỗi người tiếp nhận những đầu việc ấy lại là dấu hiệu rõ ràng về tinh thần học hỏi và thái độ nghề nghiệp.

Việc đi giao tài liệu – thoạt nhìn là một đầu việc hành chính thuần túy tưởng như chẳng liên quan gì đến chuyên môn luật. Nhưng nếu nhìn từ góc độ của một người hành nghề thực sự, đây là công việc đòi hỏi sự cẩn trọng, chủ động và kỹ năng xử lý tình huống thực tế.

Trước khi giao tài liệu, thực tập sinh cần kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ: đúng loại tài liệu, đúng số lượng, đúng phiên bản cần giao (bản công chứng hay là bản gốc) kèm theo biên bản bàn giao được soạn sẵn. Cần xem thời gian giao có gấp không, tài liệu có phục vụ cho cuộc họp hay thủ tục nào quan trọng không.  Đến khâu di chuyển – cần xem bản đồ, định tuyến đường đi, tránh tắc đường hoặc đến sai địa điểm.

Tại nơi giao, phải xác định đúng người nhận, đúng bộ phận. Chỉ một sơ suất như giao sai người, nhầm phòng ban hoặc làm thất lạc tài liệu cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ công việc, thậm chí làm phát sinh trách nhiệm không đáng có.

Và chính trong vài phút ngắn ngủi khi gặp khách hàng, một thực tập sinh hoàn toàn có thể học được nhiều kỹ năng quan trọng: từ cách giao tiếp lịch sự, giữ tác phong chuẩn mực, đến việc quan sát văn hóa doanh nghiệp và rèn luyện kỹ năng xử lý tình huống nhỏ nhưng thực tế.

Hay như việc trả lời các tình huống pháp lý thực tế trên các diễn đàn pháp luật – từng là kênh phổ biến trước khi mạng xã hội phát triển. Trước khi được tin tưởng giao xử lý một vụ việc thực tế, hãy tập trả lời các câu hỏi thực tế trên diễn đàn – nơi mọi người đăng các tình huống thường gặp: từ tranh chấp đất đai, lao động, đến hợp đồng dân sự. Tự đọc, tự tra cứu, tự suy nghĩ, và gõ lại từng dòng giải thích cho người ta hiểu. Cách làm này giúp bạn rèn luyện khả năng nghiên cứu, trình bày bằng ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu – và quan trọng nhất là hình thành tư duy pháp lý thực tiễn.

“Không chọn việc” không có nghĩa là làm tất cả. Mà là làm bất kỳ việc gì được giao với tinh thần học nghề nghiêm túc. Chính những điều đó tạo nên bản lĩnh nghề nghiệp mà không lớp học nào có thể dạy. Kỹ năng nghề luật bắt đầu hình thành một cách tự nhiên: quan sát tốt hơn, xử lý linh hoạt hơn, và sẵn sàng hơn để tiếp nhận những công việc khó hơn trong tương lai.

2. Sắp xếp tài liệu

2.1 Việc nhỏ dạy tư duy lớn

Sắp xếp tài liệu là một trong những đầu việc quen thuộc nhất mà thực tập sinh thường được giao trong những ngày đầu tiên. Công việc này có thể bao gồm: dán nhãn, bấm lỗ, kẹp vào bìa, in mục lục, đánh số trang. Ở mức phức tạp hơn là phân loại tài liệu theo nhóm: hồ sơ hành chính, chứng cứ, văn bản trao đổi giữa các bên, hợp đồng, công văn từ cơ quan nhà nước, thư khiếu nại, bản án, quyết định, v.v... Sau đó là bước sắp xếp theo trình tự thời gian, theo tiến trình vụ việc, hoặc theo logic nội dung.

Nhìn qua, đây có vẻ là công việc thuần hành chính, mang tính hỗ trợ, không đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu. Nhưng nếu tiếp cận đúng cách, đây lại là bài học đầu tiên về tư duy hệ thống trong nghề luật. Tại sao?

Tài liệu trong một vụ việc pháp lý có thể lên đến vài trăm trang: hợp đồng, phụ lục, email trao đổi, công văn, biên bản làm việc, thư khiếu nại, đơn khởi kiện, chứng cứ, văn bản tố tụng, đến cả bản án cũ có liên quan. Trong quá trình sắp xếp, thực tập sinh có cơ hội tiếp cận toàn bộ sự kiện của một vụ việc.

Nếu nghĩ rằng công việc này chỉ dừng lại ở mức xếp cho gọn gàng thì bạn đã bỏ lỡ một cơ hội rất đáng giá để học hỏi thực tế. Hãy cầm lại bộ hồ sơ trên tay, cố gắng đọc – hiểu – và hình dung lại bối cảnh pháp lý đang diễn ra trong vụ việc đó. Làm kỹ khâu này sẽ giúp bạn nhận ra mối quan hệ giữa các bên, trình tự diễn biến sự việc, các vấn đề pháp lý phát sinh, và đâu là tài liệu mấu chốt cần lưu ý.

2.1 Lật từng trang tài liệu và đọc kỹ

Bí kíp ở đây là: lật từng trang tài liệu và đọc kỹ. Sẽ có nhiều thông tin mà bạn chưa từng được học trên lớp. Đó có thể là cách luật sư đánh dấu, gạch chân, ghi chú bên lề – những dấu vết thể hiện rõ tư duy phân tích và xử lý vấn đề trong từng vụ việc. Đây là những thứ bạn có thể học được, dù không ai trực tiếp chỉ cho bạn.

  • Mỗi loại tài liệu có giá trị pháp lý ưu tiên khác nhau, nên cần được phân nhóm phù hợp: nhóm làm căn cứ pháp lý, nhóm là tài liệu nội bộ, nhóm để chứng minh hành vi…
  • Thời gian là yếu tố quan trọng: sắp xếp theo trình tự thời gian sẽ giúp nhìn rõ tiến trình tranh chấp hoặc diễn biến của toàn bộ vụ việc.
  • Cách lưu file cũng không kém phần quan trọng: chỉ cần đặt tên file đúng chuẩn và lưu đúng thư mục, bạn có thể tiết kiệm được đáng kể tra cứu – thậm chí còn giúp người khác làm việc nhanh hơn.

Nhờ việc nắm rõ cấu trúc hồ sơ do chính mình sắp xếp, bạn sẽ giúp luật sư phụ trách tìm được văn bản quan trọng trong thời gian ngắn. Đó là một khoảnh khắc nhỏ – nhưng là lúc bạn nhận ra mình thật sự đang góp phần vào công việc, không chỉ đơn thuần nghĩ rằng mình làm việc vặt.

2.3 Ứng dụng vào tranh tụng và M&A

Về sau này, kỹ năng sắp xếp và đọc hiểu tài liệu trở thành nền tảng quan trọng trong nhiều công việc chuyên môn.

  • Trong tranh tụng, luật sư phải xử lý hàng trăm trang hồ sơ để tái dựng lại vụ việc, xác định chứng cứ chính, và xây dựng hệ thống lập luận rõ ràng, logic.
  • Trong M&A, việc rà soát hồ sơ pháp lý (legal due diligence) đòi hỏi khả năng phân loại tài liệu, đối chiếu thông tin, phát hiện rủi ro từ những chi tiết nhỏ nhất – điều mà chỉ ai quen làm việc với tài liệu mới đủ nhạy để xử lý hiệu quả.
  • Trong tư vấn nội bộ, việc kiểm soát và truy xuất tài liệu nhanh chóng giúp đưa ra quyết định chính xác và kịp thời, nhất là trong các tình huống cần phản ứng nhanh với rủi ro pháp lý.

Sắp xếp tài liệu là bước đầu để hình thành tư duy xử lý thông tin – một kỹ năng cốt lõi trong hành nghề luật, và là nền móng để xử lý những công việc phức tạp hơn trong tương lai.

3. Khi slide báo giá không chỉ là thiết kế

Trong các công ty luật, khi tiếp nhận một yêu cầu tư vấn hoặc xử lý vụ việc từ khách hàng, luật sư điều hành hoặc phụ trách thường sẽ yêu cầu bộ phận chuyên môn chuẩn bị một slide báo giá (proposal).

Đây là tài liệu giới thiệu tóm tắt vụ việc, đề xuất phương án xử lý, phạm vi công việc sẽ thực hiện, nhân sự phụ trách, thời gian dự kiến và mức phí tương ứng. Tài liệu này thường được gửi cho khách hàng như một bước mở đầu trước khi ký hợp đồng dịch vụ pháp lý.

Việc làm slide báo giá tuy không trực tiếp giải quyết vấn đề pháp lý, nhưng lại là một phần trong quy trình làm việc chuyên nghiệp. Nó giúp khách hàng hiểu cách tiếp cận của luật sư, đánh giá năng lực xử lý, và đưa ra quyết định hợp tác.

Một ngày tình cờ, bạn được luật sư nhờ hỗ trợ chỉnh slide báo giá. Hãy xem đó là cơ hội để quan sát cách luật sư tiếp cận và xử lý một vụ việc thực tế.

Cách tiếp cận đơn giản là dựa vào bản memo hoặc email đã được soạn trước, rồi chuyển nội dung sang slide PowerPoint. Nhưng nếu chỉ “copy – paste” nguyên văn vào slide thì họ không nhờ bạn làm gì. Người làm slide cần hình dung ra tình huống, từ đó chọn lọc nội dung cần thiết, sắp xếp lại cho ngắn gọn, rõ ràng và đúng trọng tâm. Việc này buộc bạn phải suy nghĩ như một người đang trực tiếp xử lý vụ việc.

Không ai bắt bạn làm slide màu mè. Nhưng một file trình bày rõ ràng, sạch sẽ, đúng ngữ pháp, bố cục hợp lý là dấu hiệu cho thấy bạn có tư duy trình bày tốt – và có khả năng truyền đạt vấn đề pháp lý phức tạp thành thông tin dễ hiểu.

Từ việc làm slide, bạn sẽ dần hình thành thói quen tư duy theo cấu trúc: ngắn – gọn – rõ, không lan man, không vòng vo. Kỹ năng này sẽ được dùng trong nhiều đầu việc chuyên môn của luật sư cấp cao về sau như:

  • Chuẩn bị bài trình bày cho buổi họp với khách hàng;
  • Tham gia pitching cho thương vụ mới;
  • Thuyết trình nội bộ với đội pháp chế doanh nghiệp.

Những gì bạn học được từ việc làm slide khi thực tập sẽ giúp bạn chuyên nghiệp hơn, và tự tin hơn trong mắt khách hàng.

Suy cho cùng, nghề luật là nghề truyền đạt chính xác, mạch lạc và thuyết phục.

4. Cuối cùng

Ba kỹ năng trong bài viết này chỉ là một phần nhỏ trong hành trình học nghề luật từ những ngày đầu thực tập. Còn rất nhiều kỹ năng khác mà một thực tập sinh có thể học được nếu biết quan sát, lắng nghe và chủ động tiếp cận công việc.

Mỗi công việc được giao – dù là nhỏ nhất – đều có thể trở thành một “điểm rơi” để bạn rèn luyện sự cẩn trọng, tư duy hệ thống, khả năng truyền đạt, kỹ năng tổ chức và phối hợp trong môi trường làm việc chuyên nghiệp.

Những người hành nghề luật vững vàng không phải lúc nào cũng bắt đầu từ những việc lớn. Họ chỉ đơn giản là không bỏ lỡ cơ hội học từ những việc nhỏ.

Chọn thời điểm nộp đơn khởi kiện: Sự khác biệt giữa thắng và bại trong tranh tụng

Trong hành trình tranh tụng, việc nộp đơn khởi kiện không đơn thuần là một thủ tục pháp lý. Đó là một bước đi mang tính chiến lược có thể định hình toàn bộ cục diện vụ việc. Việc chọn đúng thời điểm khởi kiện giống như ra khơi vào thời điểm thuận lợi: biết mình sắp đối mặt với sóng to, gió lớn và sẵn sàng ứng phó với mọi kịch bản.

Thời gian là yếu tố sống còn

Một bên có thể yếu thế hơn trong nhiều khía cạnh, nhưng nếu biết chờ đúng thời cơ – khi chứng cứ đã được thu thập đầy đủ, hồ sơ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng và có đủ cơ sở pháp lý – thì khả năng thành công sẽ cao hơn rất nhiều. Ngược lại, nếu hành động vội vàng khi chưa nắm chắc toàn bộ yếu tố pháp lý và thực tiễn thì chỉ tự đẩy mình vào thế bất lợi trước tòa.

Chuẩn bị kỹ lưỡng là điều không thể thiếu

Một luật sư giỏi không chỉ biết chọn đúng thời điểm mà còn phải chuẩn bị như một chiến lược gia. Mỗi văn bản, mỗi chứng cứ cần được đánh giá và kiểm tra kỹ lưỡng để không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào. Từng bước đi đều cần được lên kế hoạch chi tiết nhằm đảm bảo chúng ta luôn ở thế chủ động khi đối diện với đối phương.

Nghề luật: Không chỉ là biện hộ mà còn là chiến lược

Biện hộ là kỹ năng quan trọng trong nghề luật nhưng chưa đủ để làm nên một luật sư giỏi. Muốn đi xa với nghề, người làm nghề luật cần có khả năng nhìn xa, trông rộng, biết nắm bắt và kiểm soát mọi yếu tố vận động trong vụ việc. Luật sư thành công không đơn thuần dựa vào kiến thức mà chính là nhờ sự tỉnh táo và nhạy bén trong từng quyết định – đặc biệt là quyết định về thời điểm hành động.

Thông điệp gửi đến những người làm công tác pháp chế

Đặc biệt, đối với những bạn đang làm pháp chế tại các doanh nghiệp, việc lựa chọn thời điểm khởi kiện càng đòi hỏi sự tỉnh táo và bản lĩnh. Đôi khi, bạn cần biết cách giải thích và vượt qua áp lực từ cấp trên để có thêm thời gian thu thập chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ và chọn đúng thời điểm chín muồi nhằm giành lấy ưu thế ban đầu. Chỉ khi đó, bạn mới thực sự đảm đương đúng vai trò của một “luật sư nội bộ” – người bảo vệ lợi ích doanh nghiệp bằng sự kết hợp giữa kiến thức pháp lý và tư duy chiến lược.

Luật sư Nguyễn Hoàng Chương

Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Thương Nhân Việt Nam (VTA)

[Mới] Cơ chế lựa chọn Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội không không thông qua đấu thầu

Nhằm tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính và đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà ở xã hội, Bộ Xây dựng đang dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội để trình Chính phủ. Một trong những điểm đáng chú ý của dự thảo là cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu đối với các dự án nhà ở xã hội. Chính sách này nhằm đơn giản hóa quy trình đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai dự án và đáp ứng nhu cầu nhà ở của người thu nhập thấp và công nhân lao động, gắn liền với việc thực hiện Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 01 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021-2030.

Hãy cùng Caselaw Việt Nam tìm hiểu chi tiết về cơ chế này để hiểu rõ hơn về các quy định, phạm vi áp dụng và quy trình thực hiện.

1. Cơ sở pháp lý của chính sách

Cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu được xây dựng dựa trên các văn bản pháp luật và định hướng chính sách sau:

  • Hiến pháp 2013, trong đó quy định Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm chỗ ở cho công dân.
  • Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  • Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
  • Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021- 2025
  • Luật Nhà ở 2023, quy định về chính sách ưu đãi phát triển nhà ở xã hội.
  • Luật Đấu thầu 2023, quy định về các trường hợp lựa chọn nhà đầu tư theo cơ chế đặc thù.
  • Luật Đầu tư công 2024, điều chỉnh về thủ tục đầu tư và các trường hợp không áp dụng đấu thầu khi lựa chọn nhà đầu tư.
  • Chỉ thị số 34-CT/TW năm 2024 của Ban Bí thư về phát triển nhà ở xã hội.
  • Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội năm 2025 về thí điểm một số cơ chế đặc thù nhằm phát triển nhà ở xã hội.

2. Các trường hợp giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Theo Dự thảo Nghị quyết, cơ chế giao chủ đầu tư không qua đấu thầu áp dụng cho ba nhóm đối tượng sau

(i) Dự án nhà ở xã hội do UBND cấp tỉnh giao:

  • UBND cấp tỉnh có thể giao trực tiếp chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội không thuộc trường hợp do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hay Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý.
  • Việc giao chủ đầu tư dựa trên danh mục dự án đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, Bộ Xây dựng và Hệ thống thông tin nhà ở và thị trường bất động sản.
  • Nhà đầu tư phải có năng lực tài chính, kinh nghiệm và cam kết thực hiện đúng tiến độ.

(ii) Dự án nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân:

  • Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể giao chủ đầu tư đối với dự án nhà ở phục vụ sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp.
  • Chủ đầu tư phải đáp ứng đủ điều kiện theo Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Đầu tư.

(iii) Dự án nhà ở xã hội sử dụng nguồn tài chính công đoàn:

  • Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được giao chủ đầu tư đối với các dự án nhà ở xã hội dành cho công nhân, người lao động.
  • Việc triển khai phải đảm bảo mức giá nhà ở phù hợp với thu nhập của công nhân và sử dụng nguồn tài chính minh bạch.

3. Quy trình giao chủ đầu tư không qua đấu thầu

Một điểm đáng chú ý trong Dự thảo Nghị quyết là các dự án nhà ở xã hội không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Thay vào đó, văn bản giao chủ đầu tư sẽ thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian triển khai dự án.

Theo quy định tại Điều 31, 32 Luật Đầu tư, các dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội sử dụng vốn ngoài đầu tư công phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, do các dự án này đã được quản lý thông qua việc phê duyệt quy hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở, bố trí quỹ đất và giao chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội, nên Dự thảo Nghị quyết đề xuất miễn thủ tục này nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư. Việc miễn thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư cũng tương tự như cơ chế đã được áp dụng cho các dự án đường sắt đô thị theo Nghị quyết số 188/2025/QH15, trong đó quy định các dự án được thực hiện ngay việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư mà không phải qua bước lập và thẩm định chủ trương đầu tư.

Dự thảo Nghị quyết quy định một quy trình trong việc giao chủ đầu tư nhằm đảm bảo tính công khai và hiệu quả:

- Công bố danh mục dự án: UBND cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền công bố danh mục dự án nhà ở xã hội trên Cổng thông tin điện tử.

- Tiếp nhận hồ sơ đăng ký: Các doanh nghiệp có đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm có thể đăng ký làm chủ đầu tư.

- Xét duyệt và lựa chọn chủ đầu tư: Dựa trên các tiêu chí về năng lực tài chính, kinh nghiệm thực hiện dự án, tiến độ cam kết, phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.

- Ban hành quyết định giao chủ đầu tư: Sau khi xét duyệt, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định giao chủ đầu tư, đồng thời thay thế văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư.

4. Một số nội dung liên quan đến cơ chế giao chủ đầu tư

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có thể trực tiếp quản lý các dự án nhà ở xã hội phù hợp với đối tượng thụ hưởng.

Nhà đầu tư được giao chủ đầu tư phải đáp ứng các tiêu chí nhất định theo quy định của Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Dự thảo cũng quy định rõ việc công bố thông tin, tiếp nhận hồ sơ và xét duyệt để đảm bảo quá trình giao chủ đầu tư được thực hiện theo đúng quy định.

5. Lộ trình thực hiện

Dự thảo Nghị quyết được dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 4/2025). Nếu được Chính phủ đồng ý, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp Bộ Tư pháp và các Bộ liên quan xây dựng Hồ sơ, Dự thảo Nghị quyết để trình Quốc hội.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam: Điều bạn cần biết để an toàn

Dữ liệu cá nhân – nghe thì “luật” đấy, nhưng thực ra nó gần gũi hơn bạn nghĩ. Tên, số điện thoại, email, hay thậm chí ảnh selfie bạn đăng lên mạng đều là dữ liệu cá nhân. Trong thời đại công nghệ, những thông tin này quý như vàng, nhưng cũng dễ bị “đánh cắp” nếu không cẩn thận. May mắn thay, pháp luật Việt Nam đã có những quy định để bảo vệ chúng ta. Bài viết này sẽ giới thiệu cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân theo luật Việt Nam, giúp bạn – dù là người mới hay sinh viên luật – hiểu rõ hơn nhé!

Dữ liệu cá nhân là gì? Đừng nghĩ xa xôi!

Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân (có hiệu lực từ 1/7/2023), hiểu đơn giản rằng dữ liệu cá nhân là thông tin liên quan đến một người cụ thể, như họ tên, ngày sinh, số CCCD, địa chỉ, hay cả thông tin nhạy cảm như sức khỏe, tài khoản ngân hàng. Nói đơn giản, bất cứ thứ gì “nói lên bạn là ai” đều là dữ liệu cá nhân.

Ví dụ nhé: Bạn đăng ký một ứng dụng mua sắm online, điền tên, số điện thoại, địa chỉ giao hàng. Đó là dữ liệu cá nhân. Hay khi bạn đi khám bệnh, bác sĩ ghi lại tình trạng sức khỏe – đó cũng là dữ liệu cá nhân, nhưng nhạy cảm hơn. Pháp luật bảo vệ để đảm bảo những thông tin này không bị lạm dụng.

Pháp luật Việt Nam bảo vệ dữ liệu cá nhân thế nào?

Trước đây, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng về dữ liệu cá nhân, mà chỉ rải rác trong các văn bản như Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật An toàn thông tin mạng 2015. Nhưng từ khi Nghị định 13/2023/NĐ-CP ra đời, mọi thứ rõ ràng hơn. Đây là văn bản đầu tiên tập trung vào bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp dụng cho cả cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.

Luật yêu cầu:

  • Đồng ý trước khi thu thập: Ai muốn lấy dữ liệu của bạn phải xin phép, trừ vài trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như cơ quan nhà nước điều tra).
  • Sử dụng đúng mục đích: Dữ liệu chỉ được dùng cho việc đã nói rõ, không “tự ý” làm chuyện khác.
  • Bảo mật an toàn: Doanh nghiệp phải có biện pháp giữ thông tin của bạn không bị rò rỉ.

Ví dụ: Bạn tải app học tiếng Anh, họ hỏi “Cho phép dùng số điện thoại để gửi thông báo không?”. Bạn đồng ý, họ chỉ được gửi tin học tập, không được tự ý bán số của bạn cho bên quảng cáo kem đánh răng, hoặc cho bọn lừa đảo ở bên Campuchia chẳng hạn. Nếu làm sai, họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Ví dụ thực tế: Khi dữ liệu cá nhân bị “lạm dụng”

Để bạn thấy rõ luật quan trọng thế nào, mình kể một câu chuyện nhé. Giả sử bạn Hùng đăng ký thẻ thành viên ở một siêu thị. Hùng điền tên, số điện thoại, email để được giảm giá. Nhưng vài tuần sau, Hùng nhận hàng tá tin nhắn quảng cáo từ các công ty bảo hiểm, bất động sản – toàn chỗ anh chẳng hề biết! Hóa ra siêu thị đã bán thông tin của Hùng mà không xin phép. Đây là hành vi vi phạm luật, vì theo Nghị định 13/2023, siêu thị phải được Hùng đồng ý trước khi chia sẻ dữ liệu.

Một ví dụ khác: Chị Lan đi làm đẹp ở spa, để lại số điện thoại. Sau đó, thông tin của chị bị lộ, kẻ xấu dùng để lừa đảo, nhắn tin giả danh ngân hàng đòi nợ. Nếu spa không bảo mật dữ liệu tốt, họ phải chịu trách nhiệm.

Quyền của bạn trong việc bảo vệ dữ liệu

Luật không chỉ “bắt” doanh nghiệp mà còn trao quyền cho bạn. Theo Nghị định 13/2023/NĐ-CP, bạn có thể:

  • Yêu cầu xóa dữ liệu: Nếu không muốn họ giữ thông tin nữa, bạn có quyền đòi xóa.
  • Kiểm tra dữ liệu: Bạn được hỏi họ đang dùng thông tin của mình để làm gì.
  • Khiếu nại nếu bị lạm dụng: Nếu dữ liệu bị dùng sai, bạn có thể báo cơ quan chức năng.

Ví dụ: Bạn thấy một ứng dụng cứ gửi tin nhắn rác dù bạn không đồng ý, bạn có thể yêu cầu họ xóa số điện thoại của mình. Nếu họ không làm, bạn báo lên phía công an – họ sẽ xử lý.

Tại sao cần quan tâm?

Với sinh viên luật, hiểu về bảo vệ dữ liệu cá nhân là bước đầu để nắm luật trong thời đại số. Còn với người bình thường, nó giúp bạn tự bảo vệ mình. Dữ liệu cá nhân bị lộ không chỉ phiền toái mà còn nguy hiểm – từ lừa đảo đến mất tiền. Chỉ cần cẩn thận khi chia sẻ thông tin và biết quyền của mình, bạn đã an toàn hơn nhiều.

Giữ dữ liệu như giữ ví tiền – Đừng chủ quan kẻo tiền mất tật mang

Bảo vệ dữ liệu cá nhân theo pháp luật Việt Nam không phải chuyện xa vời, mà là điều bạn gặp hàng ngày. Từ việc đăng ký app, đi khám bệnh, đến mua sắm, luật đều có cách giữ thông tin của bạn an toàn. Hãy nhớ: dữ liệu cá nhân giống như chiếc ví – đừng để ai “móc” mất, và nếu có chuyện gì, pháp luật đứng về phía bạn!

Tác giả: Hà Mạnh Tú

Luật sư cấp cao Công ty TNHH Công nghệ Huawei Việt Nam

Ra mắt tool tính Thuế chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

Kính chào Quý khách hàng,

Caselaw Việt Nam trân trọng thông báo tính năng mới: Tính thuế Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam tại https://caselaw.vn/tinh-thue-chong-ban-pha-gia.

Tính năng Tính thuế Chống bán phá giá sẽ là công cụ hữu ích giúp cho các nhà xuất khẩu nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các công việc vốn trước đây đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu quy định pháp luật và tham vấn luật sư:

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam; 

(ii) Biết được mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và Tính số tiền thuế Chống bán phá giá;

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS;

Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 06/04/2016 của Quốc Hội, Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong. 

Trang dữ liệu thông tin pháp lý về Mã HS của Caselaw Việt Nam cập nhật các mã HS hàng hóa bị áp thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam. Tính đến tháng 12/2020, Việt Nam đã áp thuế chống bán phá giá đối 7 nhóm sản phẩm với 74 mã HS hàng hóa có xuất xứ từ 6 quốc gia: Trung Quốc, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan.

(i) Kiểm tra nhanh mã HS hàng hóa nào bị áp thuế Chống bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam

Để biết mã HS của hàng hóa nhập khẩu có bị đánh thuế Chống bán phá giá hay không, Quý khách hàng truy cập trang Tính Thuế chống bán phá giá. Sau đó nhập mã HS 8 số và bấm kiểm tra.
 

Kết quả kiểm tra sau khi nhập mã HS 8 số:

(ii) Xem mức thuế suất thuế Chống bán phá giá và tính số tiền thuế Chống bán phá giá:

Dữ liệu tính thuế và công thức tính thuế Chống bán phá giá được các chuyên gia cố vấn của Caselaw Việt Nam tổng hợp chính xác dựa trên các quyết định về áp thuế chống bán phá giá của Bộ Công thương. Sau khi nhập đủ các thông tin vào các ô dữ liệu và bấm nút tính thuế, bạn sẽ biết được chính xác số thuế Chống bán phá giá phải nộp. Kết quả hiển thị đi kèm với các thông tin về: mức thuế suất, thời gian áp thuế, quốc gia bị áp thuế và các công ty xuất khẩu. 

(iii) Theo dõi tình trạng thuế suất thuế Chống bán phá giá của từng mã HS:

Tại trang thông chi tiết của mỗi mã HS, ví dụ như mã 29224220, ngoài thông tin về các loại thuế suất như: thuế VAT, thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định FTA(s), Quý khách hàng sẽ được xem thêm thuế Chống bán phá giá theo từng thời gian, quốc gia xuất khẩu, công ty xuất khẩu.

Caselaw Việt Nam luôn mong muốn mang đến cho Quý khách hàng các tiện ích nhằm hỗ trợ hiệu quả cho công việc. 

Chúng tôi rất vui khi được đồng hành cùng Quý khách hàng.

Trân trọng,

Caselaw Việt Nam Team

7 mẫu hợp đồng được sử dụng để thực thi quyền sử dụng đất (đặt cọc, góp vốn, cho mượn, chuyển nhượng, thế chấp, hợp tác kinh doanh...)

1. Thỏa Thuận Đặt Cọc Mua Đất Nông Nghiệp

2. Hợp Đồng Hợp Tác Kinh Doanh Góp Vốn Bằng Giá Trị Quyền Sử Dụng Đất

3. Hợp Đồng Chuyển Nhượng Quyền Sử Dụng Đất Và Tài Sản Gắn Liền Trên Đất (Xây Dựng Cửa Hàng Xăng Dầu)

4. Hợp Đồng Cho Mượn Đất

5. HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (MS 01)

6. HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (MS 01)

7. HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP Quyền sử dụng đất và căn hộ (MS 01)

(Dự thảo án lệ số 1) Quyết định GĐT số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 1/3/2017 về công nhận hợp đồng thế chấp QSDĐ mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Án lệ số  /2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày…  tháng … năm 2017 và được công bố theo Quyết định số …/QĐ-CA ngày … tháng … năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 01/2017/KDTM-GĐT ngày 01-3-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng A với bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 10 người.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 phần “Nhận định của Toà án”

Khái quát nội dung của án lệ:

- Tình huống án lệ 1:

Một bên thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng trên đất còn có tài sản thuộc sở hữu của người khác;hình thức và những nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

- Giải pháp pháp lý 1:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật.

- Tình huống án lệ 2:

Bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản gắn liền với đất không thuộc sở hữu của người sử dụng đất.

- Giải pháp pháp lý 2:

Trường hợp này, khi giải quyết Tòa án phải dành cho chủ sở hữu nhà trên đất được quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nếu họ có nhu cầu.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điều 342 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với Điều 318 Bộ luật dân sự năm 2015); Điều 715, Điều 721Bộ luật Dân sự năm 2005; mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (pháp điển hóa tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Từ khóa của án lệ:

“Thế chấp quyền sử dụng đất”; “Trên đất có tài sản của người khác”; “Thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp”; “Ưu tiên nhận chuyển nhượng”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 6/10/2011 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là Ngân hàng A trình bày:

Ngày 16-6-2008, Ngân hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng)và Công ty trách nhiệm hữu hạnB (sau đây viết tắt là Công ty B) ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 10.000.000.000 đồng và/hoặc bằng ngoại tệ tương đương. Mục đích cấp tín dụng để bổ sung vốn lưu động phục vụ kinh doanh theo nghề đăng ký của Công ty B.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty Btheo các Hợp đồng tín dụng kiêm Khế ước nhận nợ. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc và lãi của 03 Khế ước là 4.368.570.503 đồng (trong đó nợ gốc là 2.943.600.000 đồng, nợ lãi là 1.424.970.503 đồng).

Tài sản bảo đảm cho khoản vay nêu trên là nhà, đất [thửa đất số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996)] tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000), do ông H, bà N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội công chứng ngày 11-6-2008 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 11-6-2008.

Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty Btiếp tục ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD. Mục đích vay để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu; thời hạn vay 09 tháng; lãi suất vay 5,1%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150%.

Thực hiện hợp đồng, Ngân hàng đã giải ngân đủ số tiền vay 180.000 USD cho Công ty B. Công ty B mới trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số nợ lãi là 1.334,50 USD. Tính đến ngày 05-10-2011, Công ty Bcòn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.

Tài sản bảo đảm cho khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-2009058 gồm:

- Lô hàng 19 xe ô tô tải thành phẩm trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP mới 100% trị giá 2.778.750.000 đồng (do Công ty B lắp ráp theo phương thức hàng để kho đơn vị, Ngân hàng giữ Giấy chứng nhân đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng) do Công ty Bthế chấp theo Hợp đồng thế chấpsố 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009. Hợp đồng thế chấp này được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục đăng ký giao dịch bảo đảm thành phố Hà Nội ngày 02-11-2009;

- Số dư tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng trị giá 1.620.000.000 đồng do Ngân hàng phát hành. Do Công ty Bđã thực hiện được một phần nợ vay nên Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng tiền gửi trong tài khoản tiết kiệm của Công ty B, tương ứng với số nợ đã thanh toán.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ngân hàng xác nhận: đối với khoản vay 180.000 USD, Công ty B đã trả xong nợ gốc; chỉ còn lại nợ lãi là 5.392,81 USD; tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô, hiện đã bán 18 chiếc, còn lại 01 chiếc; đề nghị Tòa án cho xử lý nốt chiếc xe còn lại để thu hồi nợ vay còn thiếu.

Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:

- Công ty Bthanh toán số nợ gốc và lãi bằng VNĐ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 là 4.368.570.503 đồng;

- Công ty Bthanh toán 5.392,81 USD nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LVA-200900583.

Trong trường hợp, Công ty Bkhông thanh toán hoặc thanh toán không đủ đề nghị Tòa án phát mãi tài sản thế chấp là:

- Quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H và bà N;

- 01 xe ô tô tải thành phẩm, trọng tải 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100% do Công ty Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT- CC ngày 29-10-2009.

Đại diện bị đơn là anh T - Tổng Giám đốc Công ty B trình bày: Thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như Ngân hàng trình bày nhưng đề nghị Ngân hàng cho trả nợ dần.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông H và bà N trình bày: Ông bàthừa nhận ký hợp đồng thế chấp nhà, đất số 432 nêu trên để bảo đảm cho khoản vay tối đa là 3.000.000.000 đồng của Công ty B. Hợp đồng thế chấp được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm. Gia đình ông H và bà N cũng đã hỗ trợ Công ty trả được gần 600.000.000 đồng cho khoản vay có tài sản thế chấp là nhà và đất của ông bà. Ông, bà đề nghị Ngân hàng gia hạn khoản nợ của Công ty Bđể Công ty có thời gian phục hồi sản xuất, thu xếp trả nợ cho Ngân hàng; đề nghị Tòa án không triệu tập các con trai, con dâu, con gái và con rể của ông bà đến Tòa án làm việc.

Anh P thay mặt cho những người con, cháu của ông H, bà N đang sống tại nhà, đất số 432 trình bày:

Cuối năm 2010, anh mới biết bố mẹ anh thế chấp nhà đất của gia đình đang ở để bảo đảm cho khoản vay của Công ty B. Sau khi ông H, bà N được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, anh Pvà anh Q đã bỏ tiền ra xây dựng thêm một ngôi nhà 3,5 tầng trên đất và 16 người trong gia đình hiện đang ở tại nhà, đất số 432 nêu trên. Khi ký hợp đồng thế chấp, Ngân hàng không hỏi ý kiến các anh và những người đang sinh sống tại nhà, đất này. Do đó, anh đề nghị Tòa án không công nhận hợp đồng thế chấp và xem xét số tiền 550.000.000 đồng mà anh em các anh đóng góp vào trả nợ cho Công ty B theo Hợp đồng tín dụng có tài sản bảo đảm là nhà, đất số 432 nêu trên nhưng Ngân hàng tự ý trừ vào khoản vay ngoại tệ có tài sản bảo đảm là 19 xe ô tô là không đúng.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A đối với Công ty TNHH B.

- Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, bao gồm:nợ gốc 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạntính đến ngày 23-9-2013 1.036.575.586đồng; tiền lãi phạt chậm trảtính đến ngày 23-9-2013123.254.156 đồng; Tổng cộng:  6.054.407.123 đồng.

- Buộc Công ty TNHHBphải thanh toán trả cho Ngân hàng A số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.

Trong trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, thì Ngân hàng Acó quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông H và bà N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ…

Trường hợp Công ty TNHH Bkhông trả nợ hoặc trả không đủ số tiền nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, thì Ngân hàng A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo đảm là 01 chiếc xe ô tô tải, trọng tải 1,75 tấn hiệu JMP do Công ty TNHH Blắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 để thu hồi nợ.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về Hợp đồng tín dụng, về các khoản tiền vay và tiền Công ty B phải trả Ngân hàng A;hủy phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về  phần hợp đồng thế chấp, bảo đảm của người thứ 3, cụ thể:

… Hủy phần quyết định về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ 3 (nhà đất số 432, tổ 28 phường E, quận G, thành phố Hà Nội) ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và đăng ký tài sản bảo đảm tại Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008…

Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ và xét xử lại, xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N làm tài sản thế chấp bảo đảm cho Công ty TNHH B đối với khoản tiền vay ở Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 7-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xử hủy bản án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, để đảm bảo cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008 tại Ngân hàng của Công ty B do anh T là con trai ông H, bà N làm Giám đốc, thì ngày 11-6-2008, ông H và bà N đã thế chấp nhà, đất tại số 432,tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông H, bà N theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Hợp đồng thế chấp này được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 07/12/2000, thì nhà, đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội (sau đây viết tắt là nhà, đất số 432), gồm: diện tích đất ở 147,7 m2, diện tích nhà ở 85 m2, kết cấu nhà: bê tông và xây gạch; số tầng: 02+01. Khi thẩm định tài sản thế chấp, Ngân hàng biết trên diện đất 147,7 m2 ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký sở hữu, còn có căn nhà 3,5 tầng chưa đăng ký sở hữu nhưng Ngân hàng chỉ định giá quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng đã đăng ký sở hữu với tổng giá trị nhà, đất là 3.186.700.000 đồng, mà không thu thập thông tin, tài liệu để xem xét làm rõ nguồn gốc cũng như ai là chủ sở hữu căn nhà 3,5 tầng là thiếu sót, không đảm bảo quyền lợi của các đương sự.

[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 06-6-2012, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, xác định: nhà, đất số 432 có 02 khối nhà (gồm: khối nhà thứ nhất: diện tích chiếm đất là 37,5 m2, chiều dài 5,9 m, chiều rộng 6,35 m; khối nhà thứ hai là nhà bê tông ba tầng có ban công, diện tích 61,3 m2) và hiện có 16 người thường trú, đăng ký dài hạn, thường xuyên sinh sống. Trước khi xét xử sơ thẩm, ngày 21-9-2013, anh P (con trai ông H, bà N) có Đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000, do khó khăn về chỗ ở, năm 2002, gia đình ông H, bà N đã thống nhất để anh P và những người con của ông H, bà N bỏ tiền ra xây dựng thêm căn nhà 3,5 tầng bên cạnh căn nhà 02 tầng cũ trên thửa đất nói trên. Như vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội biết trên thực tế hiện trạng thửa đất khi thế chấp đã có 02 căn nhà (căn nhà 02 tầng cũ và căn nhà 3,5 tầng) không đúng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở năm 2000 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008. Khi giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có xem xét yêu cầu của anh P và những người con ông H, bà N liên quan đến căn nhà 3,5 tầng nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không quyết định rõ có xử lý phát mãi căn nhà 3,5 tầng hay không là không đúng, không đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.

[4] Theo quy định tại mục 4 khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm: “Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất”. Trong vụ án này, khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, bên thế chấp (ông H, bà N) và bên nhận thế chấp (Ngân hàng) đều biết rõ trên thửa đất của ông H, bà N ngoài căn nhà 02 tầng đã được đăng ký quyền sở hữu thì trên đất còn có một căn nhà 3,5 tầng chưa được đăng ký quyền sở hữu nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp tài sản gồm quyền sử dụng đất và căn nhà 02 tầng gắn liền với đất. Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 11-6-2008 có một phần bị vô hiệu (phần có căn nhà 3,5 tầng); xử hủy phần quyết định của bản án sơ thẩm về phần hợp đồng thế chấp và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xác minh, thu thập chứng cứ xác định phần tài sản hợp pháp thuộc sở hữu của ông H, bà N và xét xử lại là không đúng. Lẽ ra, với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần xem xét, quyết định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông H, bà N theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm cần yêu cầu đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nguồn gốc hình thành căn nhà 3,5 tầng nêu trên để giải quyết vụ án bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những người đã bỏ tiền ra xây dựng nhà và đang sinh sống tại đó. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cần hỏi ý kiến, động viên, khuyến khích các đương sự thỏa thuận xử lý tài sản thế chấp. Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).

[5] Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ theo thỏa thuận của các bên tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán “lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán” để chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng buộc Công ty B phải trả số tiền lãi phạt chậm trả123.254.156 đồng là không đúng pháp luật, không được chấp nhận vì đây là lãi chồng lãi. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai sót này, vẫn giữ nguyên quyết định này của bản án sơ thẩm cũng là không đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự;

1. Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-KN ngày 12-4-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2.  Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng A, bị đơn là Công ty TNHH B và 10 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[4] Trường hợp trên đất có nhiều tài sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…

…Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của người khác không phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).”

(nguồn: anle.toaan.gov.vn)