- Vụ việc, Vụ án: Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
- Loại vụ việc: Giám đốc thẩm
- Số hiệu: 530/2014/DS-GĐT
- Ngày tuyên án: 18-12-2014
- Kết quả vụ việc: Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để Xét Xử sơ thẩm lại hoặc Xét Xử phúc thẩm lại
45/2014/DSST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 4192
- 156
Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Ngày 25/7/2006, vợ chồng bà được Ủy ban nhân đân quận BT, Thành phố CT cấp quyền sử dụng đất thửa số 123 (loại đất ở đô thị), diện tích 111,6m2 theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số H002140/AT. Trên thửa đất này là căn nhà số 300/28A, khu vực 3, đường CMTT 8, phường BHN, quận BT, Thành phố CT. Tháng 3 năm 2009, vợ chồng ông BĐ_Trần Đình Tiến và bà BĐ_Nguyễn Thu Trinh khi xây nhà đã xâm phạm quyền sử dụng đất của vợ chồng bà diện tích 1,75m2, cụ thể ngang trước 0,20m, ngang sau 0,10m, chiều dài 11,5m. Nay, vợ chồng bà yêu cầu ông BĐ_Tiến và bà BĐ_Trinh trả lại diện tích quyền sử dụng đất đã xâm phạm trên.
10/2010/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2520
- 99
Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Gia đình ông mua mảnh đất liền kề với nhà anh BĐ_Hồ Mạnh Tài trước năm 1961, nhưng đến năm 1961 thì cả gia đình mới chuyển đến làm nhà trên thửa đất này. Khi ông NĐ_Cần chuyển đến đã thấy gia đình cụ Thức (ông nội anh BĐ_Tài) xây công trình phụ lấn sang đất của gia đình ông khoảng 30 cm.(ở khoảng giữa của thửa đất tính theo chiều sâu). Ngay thời điểm đó, ông Tuyển đã gặp gỡ và nói với cụ Thức về diện tích đất mà cụ Thức lấn sang đất nhà ông. Cụ Thức hứa khi nào gia đình ông Tuyển có nhu cầu sử dụng thì sẽ dỡ bỏ công trình để trả lại đất vì việc xây dựng đã xong. Từ đó đến nay, khoảng đất đó, gia đình ông vẫn dùng làm khoảng sân phía sau nhà ở, nên vẫn để nguyên như trước. Tại Bản đồ 299 hoàn thiện năm 1987 và Bản đồ đo đạc năm 1993 để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều xác đính ranh giới đất giữa hai gia đình là đường thẳng, có sự chứng kiến và công nhận của hai gia đình.
105/2008/DSPT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 2154
- 60
Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Theo đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn anh NĐ_Trường Văn Hà trình bày: Năm 1993 anh trai anh là Trần Trấn Thông có sang nhượng của ông BĐ_Học bà BĐ_Linh diện tích đất là 2.300m2 tại ấp đồngxã PT giá 4.000.000đồngghi giấy sang nhượng để tên anh và anh cũng có mặt nhận ranh đất, chỉ ghi diện tích theo sổ thuế chứ không đo đạc cụ thể và ông BĐ_Học bà BĐ_Linh kê khai nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Sau khi sang nhượng anh Thông cho anh diện tích đất trên nhưng do anh ở xa không đến canh tác mà nhờ ông BĐ_Học trông coi hộ. Năm 2004, ông BĐ_Học báo cho anh biết phía chị Diệu và anh LQ_Hồng lấn ranh, anh có đến xã PT khiếu nại nhưng chưa được giải quyết.
153/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1990
- 52
Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Theo ông NĐ_Toản trình bày: nguồn gốc đất của cha mẹ ông là Đỗ Văn Phiện và Nguyễn Thị Nhiễm cho ông vào năm 1994, nhưng trước đó cha mẹ ông có đồng ý cho một số hộ vào cất nhà ở nhờ một phần diện tích đất trong đó có hộ của ông BĐ_Lê Văn Hưu. Năm 1995 ông BĐ_Hưu đã viết cam kết ở nhờ nhà ông NĐ_Toản với điều kiện không được nới rộng thêm, không được tùy tiện sang nhượng cho người khác đến ở mà không thông qua ông NĐ_Toản. Năm 1995 ông NĐ_Toản trồng cây, đào ao trên phần đất còn lại của thửa đất. Năm 2000 gia đình ông NĐ_Toản đã kê khai và được ủy ban nhân dân huyện HN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tổng diện tích là 2.971m2 , trong đó có thửa 238 là thửa các hộ đang ở nhờ. Đến năm 2003 gia đình ông Cường sửa chữa lại nhà đã lấn vào phạm vi đất của ông NĐ_Toản. Nay ông NĐ_Toản yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Hưu di dời nhà để trả lại diện tích 4,6m X 11,5m = 52 9m2 đất
111/2006/DS-GĐT Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 1013
- 11
Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Theo đơn khởi kiện và lời khai của ông NĐ_Lê Thước trình bày: Đất của gia đình ông đang ở là của cha ông để lại, trước năm 1975 không ai ở, sau năm 1975 gia đình ông trở về quê và làm nhà ở tại đất này. Năm 1983 gia đình ông đã kê khai và năm 1996 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích là 480m2, thuộc thửa 539, tờ bản đồ số 9. Đất của gia đình ông ở cạnh đất của ông BĐ_Lê Kim Thuyết. Ranh giới đất giữa hai gia đình là hàng cây sống và là đường thẳng, nhưng cách đây 5-6 năm (năm 2001) có một đoạn hàng rào cây bị chết, đôi bên đã rào bằng tre thay hàng cây để phân ranh giới. Năm 2001 ông BĐ_Thuyết xây chuồng heo đã lấn sang phần đất của gia đình ông, chỗ 5m, chỗ 1m. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Thuyết dỡ tường trả đất cho ông.
377/2014/DS-GĐT: Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề Giám đốc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
- 849
- 5
Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Tại đơn khởi kiện ngày 01/12/2009, đơn khởi kiện bổ sung ngày 01/4/2010, và các lời khai trong quá trình hòa giải cũng như phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, nguyên đơn NĐ_Nguyễn Long Sinh trình bày: Gia đình ông có sử dụng phần diện tích đất thuộc thửa 1070, tờ bản đồ số 1, đất tọa lạc tại thị trấn LV, huyện LV, tỉnh ĐT. Ông BĐ_Trần Long Bình có sử dụng phần đất liền kề với phần đất của ông, đất của ông với đất ông BĐ_Bình có một bờ đất thuộc về phần đất của ông. Trong quá trình sử dụng ông BĐ_Bình bao chiếm bờ đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 60,7m2 để trồng cây và xây dựng nhà vệ sinh. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Trần Long Bình tháo dỡ di dời các cây trồng và kiến trúc có trên phần đất đó để trả lại cho ông và xác định ranh đất giữa ông với ông BĐ_Bình từ đầu mốc M3 đến mốc M8 theo sơ đồ đo đạc ngày 16/5/2011