cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin văn bản
10/2015/HCST: Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
  • 1018
  • 9

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng

16-07-2015
TAND cấp huyện

Ngày 13 tháng 01 năm 2015, ông NĐ_Trần Văn Phúc có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Quận X, yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 545/QĐ-UBND ngày 23 tháng 4 năm 2014 và Quyết định số 1064/QĐ-UBND-BT ngày 11 tháng 6 năm 2014 của BĐ_Uỷ ban nhân dân Quận X vì cho rằng các quyết định này không đúng pháp luật. Theo ông NĐ_Phúc: Ông và vợ là bà LQ_Phạm Thị Việt Hà mua căn nhà số 18, khu phố 5, phường TTN, Quận X, Thành phố HCM, diện tích đất 320,5m2, thuộc thửa 415-1, tờ bản đồ số 5 (sơ đồ nền), xác định tại Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 16889/2001 do Uỷ ban nhân dân Thành phố HCM cấp ngày 20 tháng 8 năm 2001 cho ông Từ Quốc Hùng và bà Nguyễn Thị Diệu Phương và ông NĐ_Phúc đã đăng ký thay đổi chủ sử dụng xong. Ngày 23 tháng 4 năm 2014, BĐ_Uỷ ban nhân dân Quận X ban hành Quyết định số 545/QĐ-UBND thu hồi Giấy chứng nhận số 16889/2001 với lý do đất nằm hoàn toàn trong khu vực đã được công bố thuộc phạm vi bảo vệ công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị. Đồng thời, Ủy ban nhân dân Quận X đã căn cứ vào Quyết định số 545/QĐ-UBND ngày 23 tháng 4 năm 2014 để ban hành Quyết định số 1064/QĐ-UBND-BT ngày 11 tháng 6 năm 2014 về bồi thường, hỗ trợ thiệt hại khi thu hồi đất trong dự án Depot Tham Lương, trên cơ sở tính lại diện tích đất ở 200m2 là không đúng pháp luật. Tại phiên toà, ông NĐ_Trần Văn Phúc vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.


17/2015/HCST: Khởi kiện quyết định hành chính về thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Sơ thẩm Hành chính
  • 3921
  • 92

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

18-09-2015
TAND cấp huyện

Ngày 04 tháng 7 năm 2011, bà NĐ_Tăng Thị Lệ Thư có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Quận X, yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 1037/QĐ-UBND ngày 09 tháng 6 năm 2010 vì cho rằng quyết định này tuyên thu hồi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3765 ngày 17 tháng 6 năm 2003 của bà là không đúng. Đây là phần đất bà Huỳnh Thị Ngọc được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3765 ngày 17 tháng 6 năm 2003, diện tích đất ở được công nhận là 1.512,7m2. Sau đó, bà Ngọc chuyển nhượng cho bà NĐ_Thư theo hợp đồng số 022644/HĐ-MBN ngày 18 tháng 7 năm 2003 và bà NĐ_Thư đã đăng ký thay đổi chủ sử dụng. Đồng thời, bà NĐ_Thư cũng yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 2009/QĐ-UBND-BT ngày 01 tháng 10 năm 2010 về bồi thường, hỗ trợ thiệt hại khi thu hồi đất, khi tính lại diện tích đất bồi thường trên diện tích đất đã thu hồi theo Quyết định số 1037/QĐ-UBND ngày 09 tháng 6 năm 2010. Tòa án nhân dân Quận X đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Thư bằng vụ án hành chính thụ lý số 18/2012/TLST-HC ngày 20 tháng 6 năm 2012. Trong quá trình giải quyết vụ án tại tòa, Ủy ban nhân dân Quận X đã ban hành Quyết định số 2626/QĐ-UBND-BT ngày 26 tháng 9 năm 2012 để thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 2009/QĐ-UBND-BT ngày 01 tháng 10 năm 2010


17/2015/HCST: Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Sơ thẩm Hành chính
  • 677
  • 11

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

18-09-2015
TAND cấp huyện

Ngày 04 tháng 7 năm 2011, bà NĐ_Tăng Thị Lệ Thư có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Quận X, yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 1037/QĐ-UBND ngày 09 tháng 6 năm 2010 vì cho rằng quyết định này tuyên thu hồi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3765 ngày 17 tháng 6 năm 2003 của bà là không đúng. Đây là phần đất bà Huỳnh Thị Ngọc được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3765 ngày 17 tháng 6 năm 2003, diện tích đất ở được công nhận là 1.512,7m2. Sau đó, bà Ngọc chuyển nhượng cho bà NĐ_Thư theo hợp đồng số 022644/HĐ-MBN ngày 18 tháng 7 năm 2003 và bà NĐ_Thư đã đăng ký thay đổi chủ sử dụng. Đồng thời, bà NĐ_Thư cũng yêu cầu Tòa tuyên hủy Quyết định số 2009/QĐ-UBND-BT ngày 01 tháng 10 năm 2010 về bồi thường, hỗ trợ thiệt hại khi thu hồi đất, khi tính lại diện tích đất bồi thường trên diện tích đất đã thu hồi theo Quyết định số 1037/QĐ-UBND ngày 09 tháng 6 năm 2010. Tòa án nhân dân Quận X đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của bà NĐ_Thư bằng vụ án hành chính thụ lý số 18/2012/TLST-HC ngày 20 tháng 6 năm 2012.


23/2012/KDTM-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê đất Sơ thẩm Kinh doanh thương mại
  • 1006
  • 28

Tranh chấp hợp đồng thuê đất

25-09-2012
TAND cấp huyện

Ngày 23/12/2000, NĐ_Công ty TNHH liên doanh Phúc Vinh và BĐ_Công ty TNHH Season A (SAC) ký kết hợp đồng thuê đất để tái xác nhận lại mục đích ký kết Hợp đồng số 01 với nội dung quy định tại Điều 1 của Hợp đồng thuê đất “NĐ_Công ty Phúc Vinh đồng ý cho BĐ_Công ty SAC thuê lô đất Cr3-6 & Cr3-7, phường TP, quận X, Đô thị mới Nam Sài Gòn, thành phố HCM với mục đích xây dựng và hoạt động một tòa nhà thương mại đa chức năng gọi là Southern Cross Sky View, lô đất có tổng diện tích 1.443m2”. Giá thuê, thời hạn thuê và phương thức thanh toán của Hợp đồng thuê đất này giữ nguyên không đổi được nêu trong hợp đồng số 01. Về bản chất hai hợp đồng này tồn tại song song nhưng bản chất là hợp đồng thuê đất.


23/2014/GĐT-HC: Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Giám đốc thẩm Hành chính
  • 651
  • 20

Khiếu kiện quyết định hành chính về việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng

23-09-2014

Ngày 16/10/1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 937/QĐ-TTg về việc thu hồi 269.167m2 đất thuộc xã Bình An, huyện Thuận An, tỉnh BD và giao cho Công ty Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc thành phố HồChí Minh sử dụng toàn bộ diện tích đất này để xây dựng Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc theo dự án đã được duyệt. Ngày 18/5/2000, ủy ban nhân dân tỉnh BD ban hành Thông báo số 1277/UB.SX gửi Công ty Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc và ủy ban nhân dân huyện DA về việc áp dụng giá đền bù khu vực xây dựng Công viên Lịch sử- Văn hóa dân tộc, có nội dung: “Thong nhất áp dụng giả đền hù, di dời trong khu vực 27ha quy hoạch xây dựng Công viên Lịch sử Văn hóa dân tộc thuộc xã Bình An, huyện DA theo giả đền bù của thành pho Hồ Chỉ Minh như tỉnh thần Thông bảo 216/TB. UB ngày 08/11/1996 trước đây của tỉnh”.


64/2014/KDTM-GĐT: Tranh chấp hợp đồng tín dụng Giám đốc thẩm Kinh doanh thương mại
  • 747
  • 24

Tranh chấp hợp đồng tín dụng

27-11-2014

Mặc dù quá trình giải quyết vụ án, bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh đã thừa nhận số nợ gốc, nợ lãi như đại diện Ngân hàng trình bày. Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh có trách nhiệm thanh toán số nợ nêu trên là có căn cứ. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực và NĐ_Ngân hàng phát triển nhà Cẩm Vân (do NĐ_Ngân hàng phát triển nhà Cẩm Vân - Chi nhánh tỉnh VL đại diện) thì bà BĐ_Nguyễn Thị Chung và anh BĐ_Nguyễn Công Mạnh còn phải chịu lãi suất theo quy định tại Khoản 2 Điều 305 của Bộ Luật dân sự cho đến khi thi hành án xong” là không đúng. Trường hợp này cần phải tuyên buộc bà BĐ_Chung, anh BĐ_Mạnh tiếp tục phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng trên số nợ gốc kể từ sau ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết số nợ gốc.


04/2014/DSST: Tranh chấp quyền sử dụng đất Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế
  • 432
  • 9

Tranh chấp quyền sử dụng đất

10-03-2014
TAND cấp huyện

Diện tích 106m2 tọa lạc tại thửa 279, tờ bản đồ số 2 (sơ đồ nền), phường TML, Quận X thuộc một phần diện tích đất do ông NĐ_Dương Văn Giàu và bà NĐ_Nguyễn Thị Mai mua lại của ông Trần Văn Thuận và bà Võ Thị Hảo vào năm 1957. Trong quá trình sử dụng ông bà có cho con trai và con dâu là BĐ_Dương Anh Duy và BĐ_Bùi Thị Ngọc Oanh ở nhờ trên đất. Việc cho ở nhờ này chỉ nói miệng. Năm 2003, ông bà xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phát hiện bà BĐ_Oanh và ông BĐ_Duy đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phần đất của ông bà với diện tích là 306,2m2. Ông bà đồng ý cho 200m2 và yêu cầu ông BĐ_Duy, bà BĐ_Oanh trả lại phần diện tích 106,2m2 còn lại theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Nhưng ông BĐ_Duy và bà BĐ_Oanh không đồng ý. Sau khi thỏa thuận trong gia đình không thành, ông bà khởi kiện.