cơ sở dữ liệu pháp lý

118/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 5031
  • 202

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

15-04-2015
TAND cấp huyện

Khi ký hợp đồng thuê nhà, NĐ_Công ty TNHH ABC Việt Nam và Văn phòng đại diện ABC tại Thành phố HCM biết căn nhà thuê hiện đã được ông BĐ_Hàn Đức Trọng thế chấp tại LQ_Ngân hàng thương mại cổ phần XYZ. Do vậy giữa NĐ_Công ty TNHH ABC Việt Nam, Văn phòng đại diện ABC tại thành phố HCM và ông BĐ_Hàn Đức Trọng mới ký điều khoản ràng buộc tại hợp đồng rằng: ông BĐ_Hàn Đức Trọng đảm bảo và cam kết nếu làm thiệt hại đến bên thuê do chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp gây ra thì bên cho thuê sẽ phải đền bù 100% thiệt hại. Đồng thời việc ông BĐ_Trọng cho NĐ_Công ty TNHH ABC Việt Nam, Văn phòng đại diện ABC tại Thành phố HCM thuê căn nhà trên đã được LQ_Ngân hàng thương mại cổ phần XYZ đồng ý bằng văn bản.


22/2010/DS-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 4408
  • 247

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

27-09-2010
TAND cấp huyện

Khoảng tháng 10/2007 bà thấy nhà R1- 25 HP 4, Phú Mỹ Hung phường TP Quận Y để bảng cho thuê nhà, do có nhu cầu kinh doanh nên bà liên lạc điện thoại theo số ghi trên bảng thì bà gặp bà LQ_Hoa (chị bà BĐ_Đinh), sau đó bà đến xem nhà gặp mẹ bà BĐ_Đinh khẳng định nhà có đầy đủ giấy tờ nên bà đồng ý thuê và đưa ngay 2000 USD để giữ chỗ, sau đó bà được biết chủ nhà là bà BĐ_Đinh hiện không ở Việt Nam, bà hỏi giấy tờ nhà thì bà LQ_Hoa nói bà BĐ_Đinh giữ giấy tờ nhà ở Đài Loan, bà BĐ_Đinh ủy quyền miệng cho bà LQ_Hoa đứng ra cho thuê căn nhà này bà có ý lo ngại không muốn thuê nhưng do bà BĐ_Đinh gọi điện thoại và gửi tin cho bà bảo đảm căn nhà của bà và yên tâm về việc giao tiền và ký hợp đồng thuê, nên ngày 11/10/2007 bà ký hợp đồng thuê một phần căn nhà bao gồm toàn bộ tầng trệt và tầng lửng với chị bà BĐ_Đinh là bà LQ_Hồ Thị Hoa giá thuê là 2500 USD/ tháng, thời hạn thuê là 6 năm kể từ ngày 01/11/2007 bà đã đặt cọc tiền thuê nhà 6 tháng là 15.000USD, mục đích thuê để làm trụ sở LQ_Cty TNHH Phúc Đạt và kinh doanh nhà hàng ăn uống, hai bên đã bàn giao nhà theo như biên bản bàn giao nhà ngày 01/11/2007.


626/2016/DS-PT: Vụ án Hoa hậu Diệu Hân kiện ‘người đánh ghen’ ra tòa và đòi bồi thường danh dự, nhân phẩm bị xâm hại Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 3667
  • 181

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

20-05-2016
TAND cấp tỉnh

Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, bà NĐ_Hân đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình được thỏa thuận trong hợp đồng, không vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào. Tuy nhiên, từ thời điểm giao nhà cho đến nay, bà BĐ_Trang đã cố ý vi phạm các nghĩa vụ của bên cho thuê nhiều lần, qua việc bà BĐ_Trang thường xuyên xúc phạm đến danh dự nhân phẩm để vu khống bà NĐ_Hân, gây rối và cố ý phá hoại tài sản của bên thuê được đặt trong diện tích thuê, mục đích cản trở hoạt động kinh doanh của bên thuê làm ảnh hưởng và thiệt hại rất nghiêm trọng và không thể tiếp tục kinh doanh bình thường được


20/2015/KDTM-ST Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2951
  • 122

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

15-04-2015
TAND cấp huyện

NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà và ông BĐ_Đại, bà BĐ_Thanh có ký kết thỏa thuận thuê nhà ngày 22/4/2009 nội dung NĐ_Ngân hàng TMCP Sài Gòn Phú Hà thuê của ông BĐ_Đại, bà BĐ_Thanh hai căn nhà số 954 và 956 Mỹ Toàn 3, phường TP, Quận T, Thành phố HCM, bên thuê được sửa chữa sử dụng theo công năng dùng làm văn phòng hoạt động kinh doanh lĩnh vực ngân hàng với sự đồng ý của ông BĐ_Đại, bà BĐ_Thanh. Giá thuê bằng tiền Việt Nam đồng tương ứng 9.000USD/ tháng và tăng dần theo hàng năm theo phụ lục sửa đổi thỏa thuận thuê nhà. Thời hạn thuê nhà 05 tháng và sẽ được tái tục không hủy ngang với tổng thời gian thuê không quá 05 năm (tính từ ngày 01/6/2009 đến hết 31/5/2014).


25/2011/KDTM-ST Sơ thẩm Kinh doanh thương mại

  • 2660
  • 62

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

30-09-2011
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 30/3/2010 và những lời khai tại Tòa án nhân dân quận X, ông Trần Văn Trí (người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn) trình bày: Ngày 25 tháng 9 năm 2009, NĐ_Công ty TNHH An Khang (NĐ_An Khang) và BĐ_Công ty TNHH đầu tư phát triển sản xuất Vĩnh Hà (BĐ_Vĩnh Hà) đã ký kết Hợp đồng thuê văn phòng tại số 65 Phòng 5, Lầu 7 Toà nhà Saigon Center, đường LL, phường BN, quận X, thành phố HCM. Các bên đã thoả thuận diện tích thuê 123 m2, giá thuê là 40USD/m2, phí dịch vụ 6 USD/m2, thời hạn thuê là hai (02) năm, từ ngày 04/11/2009 đến ngày 3/11/2011. Trong thời gian thực hiện Hợp đồng, vào ngày 20/8/2010, BĐ_Vĩnh Hà có Văn bản số 118/CV.BIM.HCM thông báo đề nghị việc sẽ chấm dứt Hợp đồng từ ngày 01/10/2010. Ngày 27/8/2010 NĐ_An Khang đã có văn bản phản hồi không chấp thuận đề nghị của BĐ_Vĩnh Hà do Hợp đồng không có thoả thuận về việc chấm dứt trước thời hạn nên BĐ_Vĩnh Hà vẫn phải tiếp tục thực hiện theo các quyền và nghĩa vụ được nêu trong Hợp đồng.


588/2015/DS-PT: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2276
  • 57

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

19-05-2015
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 11/3/2013, nguyên đơn - bà NĐ_Lưu Thị Thùy Xinh có ông Sin Thoại Khánh đại diện theo ủy quyền trình bày: Đầu năm 2002 bà NĐ_Xinh và ông BĐ_Nguyễn Đình Quá có ký hợp đồng thuê nhà (kios) tọa lạc tại số 1/4C PVC, Phường L, quận GV, Thành phố HCM, diện tích 3,5 x 10 = 35m2 để kinh doanh buôn bán, thời hạn cho thuê là 01 năm, giá thuê là 700.000đ/tháng và tiền thuê sẽ trả vào ngày 01 và 05 tây hàng tháng. Ông BĐ_Quá đã đặt cọc 2.000.000 đồng. Hai bên cam kết nếu muốn lấy lại nhà hoặc kết thúc hợp đồng trước thời hạn thì chỉ cần báo trước một tháng. Bà NĐ_Xinh và ông BĐ_Quá chỉ ký hợp đồng vào năm 2002, năm 2003. Do chỗ quen biết và tin tưởng lẫn nhau nên kể từ năm 2004 đến nay bà NĐ_Xinh không ký kết bất cứ hợp đồng thuê nhà nào. Ngày 01/12/2012 bà NĐ_Xinh có thông báo cho ông BĐ_Quá sẽ lấy lại kios vào đầu tháng 01/2013 nhưng ông BĐ_Quá không đồng ý trả, bà NĐ_Xinh đã nhiều lần yêu cầu ông BĐ_Quá giao trả nhà nhưng ông BĐ_Quá không thực hiện và luôn tìm cách lẩn tránh nên bà NĐ_Xinh đã làm đơn gửi đến Ủy ban nhân dân Phường L, quận GV, Thành phố HCM để giải quyết. Ủy ban đã hòa giải nhưng không thành nên bà NĐ_Xinh khởi kiện tại Tòa và yêu cầu ông BĐ_Quá trả lại kios tọa lạc tại số 1/4C PVC, Phường L, quận GV, Thành phố HCM và tiền thuê nhà tính từ 01/12/2012 cho đến ngày xét xử mỗi tháng là 10.000.000 đồng.


1596/2015/DS-PT Phúc thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2272
  • 41

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

22-12-2015
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện và các lời khai của nguyên đơn – Bà NĐ_Trần Thị Kim Loan trong quá trình tham gia tố tụng như sau: Nguồn gốc nhà đất số B10/18 ấp 2 xã LMX, huyện BC, diện tích 225m2, thuộc thửa 44 tờ bản đồ số 70 do bà mua của bà BĐ_Nguyễn Thị Phiền theo hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở được chứng thực tại Phòng công chứng An Lạc ngày 08/10/2014, số công chứng 004300, quyển số 01/2014/HĐGD-CCAL. Việc mua bán nhà đất đã hoàn tất về thủ tục pháp lý và bà đã được Ủy ban nhân dân huyện BC cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 609185 ngày 31/3/2015. Ngay sau khi ký hợp đồng mua bán nhà với bà BĐ_Phiền, bà cho một mình bà BĐ_Phiền thuê lại căn nhà trên, thời gian thuê 06 tháng, giá thuê mỗi tháng 6.000.000 đồng. Hai bên lập hợp đồng thuê nhà ngày 08/10/2014.


2122/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 2063
  • 41

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

04-10-2016
TAND cấp huyện

Ngày 29/12/2010, NĐ_Công ty phát triển nhà Thánh An (nay là NĐ_Công ty TNHH một thành viên Địa ốc Thánh An) có ký với bà BĐ_Nguyễn Thị Hoa Hợp đồng cho thuê nhà số 214/HĐTN-PTN để cho bà Hạnh thuê căn hộ 104, tầng 2 (lầu 1) Khu tạm cư NTL, phường 13, quận BT, với giá thuê là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng/tháng, ngày nhận bàn giao nhà là ngày 31/12/2010, thời hạn hợp đồng từ ngày 31/12/2010 đến ngày 30/6/2011. Khi đôi bên ký hợp đồng thuê nhà thì bà Hạnh có đặt cọc cho Công ty số tiền là 2.354.000 (hai triệu ba trăm năm mươi bốn ngàn) đồng tương đương với 02 (hai) tháng tiền thuê nhà. Sau đó bà Hạnh đã thanh toán cho Công ty được 01 tháng tiền thuê nhà từ ngày 30/12/2010 đến 30/01/2011 là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng. Từ ngày 01/02/2011, bà Hạnh đã ngưng không thanh toán tiền thuê nhà cho Công ty cho đến nay.


103/2015/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1962
  • 27

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

30-01-2015
TAND cấp tỉnh

Bà NĐ_Lê Thị Cẩm Dung trình bày: Chồng bà là ông Trần Đại Độ (chết năm 2010) trước đây có thỏa thuận cho ông BĐ_Trần Duy và bà BĐ_Nguyễn Thị Ngọc Uyên thuê một phòng lầu 1, căn nhà số 26/10A TQD, Phường X, Quận Y, Tp. HCM. Theo thỏa thuận ông BĐ_Duy và bà BĐ_Uyên đưa cho ông Độ số tiền 70.000.000 đồng và được ở nhà nói trên không phải trả tiền thuê trong thời hạn 02 năm. Do bà muốn lấy lại nhà để sử dụng nên đã lấy lại nhà trước thời hạn, đồng thời trả lại 70.000.000 đồng và hỗ trợ thêm 12.000.000 đồng cho ông BĐ_Duy và bà BĐ_Uyên. Thời hạn phải trả nhà là cuối tháng 01/2011. Tuy nhiên, kể từ khi nhận số tiền trên ông BĐ_Duy và bà BĐ_Uyên đã không chịu trả nhà và cũng không thanh toán tiền thuê nhà cho bà.


1819/2016/DS-ST: Tranh chấp hợp đồng thuê nhà Sơ thẩm Dân sự - Hôn nhân gia đình - Đất đai - Thừa kế

  • 1870
  • 19

Tranh chấp hợp đồng thuê nhà

01-09-2016
TAND cấp huyện

Trong bản tự khai, các biên bản lập tại Tòa, Ông BĐ_Trương Minh Quân và bà BĐ_Lê Thị Hân (bị đơn) xác nhận đã thuê nhà của ông NĐ_Cần từ năm 2002, việc thuê nhà chỉ thỏa thuận miệng, không làm văn bản, giá thuê nhà ban đầu là 800.000 đồng, đến giữa năm 2010 bị đơn tự nguyện trả mỗi tháng là 1.500.000 đồng. Bị đơn xác nhận còn nợ tiền thuê nhà của nguyên đơn nhưng ít hơn số tiền nguyên đơn nêu ra. Tuy nhiên do khi thuê nhà, nguyên đơn có hứa là khi nào nhận được tiền đền bù giải tỏa sẽ hỗ trợ bị đơn vì có công tôn tạo lại căn nhà cũ nát và bồi đắp đường đất sạt lở và nhờ bị đơn đã giữ gìn, bồi đắp nhà đất nên nguyên đơn mới nhận được tiền đền bù giải tỏa. Bị đơn sẽ trả lại nhà đã thuê nếu nguyên đơn hỗ trợ 300.000.000 đồng là số tiền bị đơn cho rằng đã bỏ ra để chống sạc lỡ, tôn tạo, sửa chữa nhà mới ở được.