Thông qua Công ty TNHH Tư vấn - Môi giới bất động sản Lộc Phát, ngày 10/02/2012 ông NĐ_Đoàn Đình Sung (bên nhận chuyển nhượng) và bà Đoàn Thùy Phương (bên chuyển nhượng) có ký hợp đồng đặt cọc. Nội dung hợp đồng bà BĐ_Phụng đồng ý chuyển nhượng căn nhà số 228, đường 18 khu B thuộc dự án An Phú – AK, Quận A, Thành phố HCM có diện tích 200m2 (10 x 20m) do LQ_Công ty TNHH Một thành viên Phát triển và Kinh doanh Quốc Thịnh làm chủ đầu tư (theo Hợp đồng số 794/HĐAPB-KD ngày 26/12/2000 và Phụ lục hợp đồng số 794B/2009/PLHĐAPAK ngày 04/9/2009 đứng tên hợp đồng là bà Đoàn Thùy Phương) cho ông NĐ_Sung. Giá chuyển nhượng là 14.450.000.000đ (mười bốn tỷ bốn trăm năm mươi triệu đồng), thỏa thuận phương thức thanh toán như sau:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lâm Thanh Sơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuyên bố Lâm Thanh Sơn phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự Xử phạt: Lâm Thanh Sơn 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 30/12/2014.
Nguyên đơn ông NĐ_Lê Hoàng Tú trình bày: Ngày 27/01/2008, Ông NĐ_Lê Hoàng Tú và bà BĐ_Trương Thị Sinh có ký Hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo đó ông NĐ_Tú có nhận chuyển nhượng của bà BĐ_Trương Thị Sinh phần đất có diện tích 126,4m2 thuộc một phần thửa đất số 71, tờ bản đồ số 02, bộ địa chính xã XTT, với giá 279.000.000 (Hai trăm bảy mươi chín triệu) đồng. Phần diện tích này bà BĐ_Trương Thị Sinh đã được Ủy ban nhân dân huyện HM cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số V 197179 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Số 00114 QSDĐ ngày 28/10/2002, Ông NĐ_Tú đã đặt cọc cho bà BĐ_Sinh số tiền 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng. Hai bên thỏa thuận sau khi bà BĐ_Sinh hoàn thành thủ tục tách thửa thì sang tên cho ông NĐ_Tú và ông NĐ_Tú giao đủ số tiền còn lại.
Theo đơn khởi kiện ngày 24/12/2012 và trình bày của bà LQ_Nguyễn Thị Diện là người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn đồng thời là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì giữa bố bà với bà và vợ chồng bà BĐ_Nguyễn Thị Thư ông LQ_Đinh Văn Hưng đã thỏa thuận với nhau về việc sang nhượng quyền kinh doanh khách sạn Phương Lan địa chỉ tại số 678 SVH, Phường 12, Quận X, thành phố HCM với giá 600.000.000đ, tiền thuê nhà hàng tháng 1.900 USD, tiền đặt cọc 23.000 USD. Sau khi thỏa thuận, ngày 17/09/2011 hai bên đã tiến hnh làm giấy nhận cọc theo đó phía bà đã giao cho bà BĐ_Thư 600.000.000 đồng và bà BĐ_Thư đã giao khách sạn Phương Lan tại địa chỉ số 678 SVH, Phường 12, Quận X, thành phố HCM cho bà quản lý, kinh doanh. Theo như thỏa thuận ghi trong giấy nhận cọc thì sau khi nhận đủ toàn bộ số tiền (600.000.000 đồng và 23.000USD) thì bà BĐ_Thư sẽ làm hợp đồng chuyển quyền kinh doanh khách sạn cho phía bà nên để thuận lợi cho việc quản lý khách sạn trong qus trình kinh doanh, ngày 19/11/2011 bà tiếp tục chuyển vào tài khoản của ông NĐ_Hưng 250.000.000 đồng và lần thứ 3 không nhớ ngày bà đã giao cho bà BĐ_Thư 230.000.000 đồng cho đủ số tiền 480.000.000 đồng tương đương 23.000 USD là tiền đặt cọc.
Trong đơn khởi kiện, bản khai và biên bản hòa giải Bà NĐ_Vũ Thị Nghiêng – Nguyên đơn trình bày: Ngày 03/11/2007 bà BĐ_Âu Nguyệt Khánh và bà thỏa thuận mua bán căn nhà 403/9 CBN, phường NCT, Quận Y, Tp. HCM do bà BĐ_Khánh sở hữu với giá là 300.000.000 đồng. Hai bên ký hợp đồng đặt cọc bà giao cho bà BĐ_Khánh số tiền là 200.000.000 đồng. Bà BĐ_Khánh giao giấy tờ sở hữu căn nhà cho bà và hẹn ngày 18/11/2007 ra Công chứng ký hợp đồng mua bán nhà. Nhưng sau đó bà BĐ_Khánh không thực hiện theo đúng nghĩa vụ đã cam kết mặc dù bà nhiều lần cố gắng liên lạc nhưng không được.