Chị Phạm Thị Mỹ Hạnh và anh Vũ Văn Xuân trước đây là vợ chồng. Hai người có 03 con chung, con lớn sinh năm: 1993, nhỏ nhất sinh năm: 1999. Năm 2003 chị Hạnh yêu cầu ly hôn. Tại bản án phúc thẩm số 11-HNGĐ-PT ngày 21/06/2004. Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT đã giải quyết trong quan hệ hôn nhân và con chung. Riêng về tài sản chung, nợ chung mặc dù Tòa án nhân dân huyện CĐ đã giải quyết sơ thẩm 02 lần (bản án sơ thẩm số 20/HNGĐ-ST ngày 21/04/2004 và bản án sơ thẩm số 16/2006/HNGĐ-ST ngày 16/01/2006) nhưng đều bị hai bản án phúc thẩm số 11/HNGĐ-PT ngày 21/06/2004 và bản án phúc thẩm số 51/DSPT ngày 06/04/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh BR-VT xử hủy về phần chia tài sản để giải quyết lại sơ thẩm với lý do: Bản án sơ thẩm chưa đề cập xem xét giải quyết đầy đủ các yêu cầu của các đương sự, vi phạm các Điều 5, 58, 60, 61 và 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
Theo đơn kiện ngày 24/6/2006 và trong quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Nông Thị Noọng trình bày: chị và anh Toàn Văn Inh kết hôn vào năm 1992 không có đăng ký kết hôn. Trước khi kết hôn chị và anh Inh đều đã lập gia đình và mỗi người đều đã có một con riêng. Quá trình chung sống chị và anh Inh sinh được hai con chung là cháu Toàn Văn Thụ sinh ngày 09/5/1994 và cháu Toàn Thị Vui sinh ngày 14/2/1996. Do mâu thuẫn giữa con chung và con riêng của vợ chồng, anh Inh thường xuyên chửi bới và đuổi chị ra khỏi nhà. Đã nhiều lần 1 Trưởng xóm và chính quyền hòa giải, khuyên can nhưng anh Inh không chịu thay đổi. Anh Inh vẫn chửi bới và tuyên bố không làm ăn với chị nữa làm cho cuộc sống gia đình luôn căng thẳng, không có hạnh phúc.
- Về quan hệ hôn nhân: chị NĐ_Dương Tố Chi và anh BĐ_Trang Thanh Đinh thống nhất thời gian kết hôn vào năm 2006 có đăng ký kết hôn; do hai bên xảy ra mâu thuẫn nên anh chị đã ly thân vào năm 2008. Chị NĐ_Chi cho rằng anh BĐ_Đinh thường xuyên chửi bới chị và xúc phạm gia đình chị, tiền bạc thì anh BĐ_Đinh quản lý, nay chị yêu cầu được ly hôn. Anh BĐ_Đinh xác định anh thông chửi bới chị NĐ_Chi mà do chị NĐ_Chi không chăm sóc con cái, cộc cằn thô lỗ với chồng và gia đình chồng. Anh cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị NĐ_Chi.
Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Thị Thân trình bày: Trong quá trình chung sống giữa tôi với ông BĐ_Trang Quốc Nhân từ năm 1991 đến năm 2004 đã tạo lập được khối tài sản chung gồm: Một lô đất có diện tích qua đo đạc thực tế 7.607m2 thuộc thửa đất số 375B, tờ bản đồ số 12 tại tổ 1, phường Chi Lăng; các tài sản có trên lô đất này gồm: 01 căn nhà xây cấp 4; 01 nhà xưởng khung gỗ, mái lợp tôn; tường rào bao xung quanh đất và nhà xưởng; cây cà phê catêmon trồng từ năm 1997, từ lâu không được chăm sóc và máy móc thiết bị có 02 máy cưa vòng (cưa CD) mua từ năm 1992 và 02 máy cưa mâm mua từ năm 1995.
Anh và chị Lê Thị Phúc kết hôn vào năm(1989) trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Sau khi cưới, vợ chồng sống hạnh phúc bình thường đến năm 2002 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do nghề nghiệp anh là lái xe, thường xuyên xa nhà. Cha mẹ anh thì đã già yếu, đau ốm nhưng chị Phúc ít quan tâm đến cha mẹ chồng, thường xuyên bỏ cha mẹ anh để về nhà cha mẹ ruột của mình ở. Đến tháng 04/2008, chị Phúc tự ý dọn vật dụng trong gia đình bỏ đi và vợ chồng sống ly thân cho đến nay.