cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 53 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
05/2011/DS-ST: Tranh chấp tiền đặt cọc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
28-01-2011
Sơ thẩm
05/2011/DS-ST
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 07/01/2006, các biên bản tự khai và các lần hòa giải, nguyên đơn và đại diện nguyên đơn - ông Nguyễn Hữu An thống nhất trình bày: Ông NĐ_Lê Trọng Đinh và bà LQ_Lê Thị Hữu Hân có diện tích đất 75.000m2 (đo đạc thực tế là 84.000m2) tại ấp 5, thị trấn Uyên Hưng, huyện TU, BD, đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 05/8/1994. Trên diện tích đất này ông NĐ_Đinh, bà LQ_Hân đã đầu tư xây dựng nhà, trồng cây và chuồng trại để làm trang trại nuôi gà.

36/2010/DS-ST
24-11-2010
Sơ thẩm
36/2010/DS-ST
TAND cấp huyện

Ngày 20/9/2007 qua sự giới thiệu của ông Thang Lưu Hồng và bà Nguyễn Thị Sâm thì ông có đến nhà 222 HTP, phường TTT, Quận Z, thành phố HCM để xem nhà. Được biết bà BĐ_Hoa bán căn nhà 222 HTP cấu trúc vách tường, mái tôn, phía sau có gác gỗ, diện tích 6,5m x 38m = 247m2 với giá 7.100.000.000đ (bảy tỷ một trăm triệu đồng) tương đương 25.000.000đ/m2, theo bà BĐ_Hoa trình bày nhà có giấy tờ đầy đủ. Ngày 22/9/2007 ông NĐ_Ngà đặt cọc 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), ngày 23/9/2007 đặt cọc tiếp 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), tổng số tiền đặt cọc đã đưa là 600.000.000đ (sáu trăm triệu đồng) hai bên có ký “Giấy đặt cọc bán nhà” vào ngày 22/9/2007. Sau khi đặt cọc ông có yêu cầu bà BĐ_Hoa đưa giấy tờ nhà cho ông xem và bà BĐ_Hoa có photo cho ông 01 bản giấy chủ quyền nhà, do có việc bận nên ông về ngay chưa xem kỹ nội dung giấy chủ quyền.

18/2010/DS-ST
21-09-2010
Sơ thẩm
18/2010/DS-ST
TAND cấp huyện

Do quen biết bà Nguyễn Thị Thanh Thảo là con dâu bà BĐ_Đỗ Thị Chi nên bà biết căn nhà số 67 MVV, phường TQ, Quận X đang có nhu cầu bán và đang làm thủ tục để được cấp GCNQSHNƠ và QSDĐ. Ngày 14/01/2008 bà ký hợp đồng đặt cọc mua một phần nhà đất số 67 MVV, phường TQ, Quận X với các đồng thừa kế của ông Trần Đình Đức là bà BĐ_Đỗ Thị Chi, bà BĐ_Trần Thị Bích Linh, bà BĐ_Trần Thị Phúc, bà BĐ_Trần Thị Bích Hân, ông BĐ_Trần Đình Ba, ông BĐ_Trần Đình Hữu, bà BĐ_Trần Thị Lưu. Ngay khi ký hợp đồng bà đã thanh toán cho bên bán 700.000.000đ (bảy trăm triệu đồng) có ghi biên nhận và tại thời Điểm ký căn nhà chưa có giấy tờ hợp lệ do đó bên bán cam kết hoàn tất thủ tục trong vòng 04 tháng để hai bên tiến hành mua bán tại phòng công chứng.

160/2010/KDTM-PT: Tranh chấp hợp đồng phân phối hàng hóa
15-09-2010
Phúc thẩm
160/2010/KDTM-PT
Tòa phúc thẩm TANDTC

Ngày 18/3/2008 NĐ_Công ty TNHH thương mại Tú Minh (sau đây gọi tắt là NĐ_Công ty Tú Minh) và BĐ_Công ty TNHH Điện lạnh Tiến Hà (sau đây gọi tắt là BĐ_Công ty Điện lạnh Tiến Hà) ký hợp đồng khung ủy nhiệm phân phối độc quyền tại khu vực Miền Nam số 01 Tiến Hà/HĐĐL (sau đây gọi tắt là hợp đồng 01 Tiến Hà /HĐĐL). Theo đó, BĐ_Công ty Điện lạnh Tiến Hà giao cho NĐ_Công ty Tú Minh làm nhà phân phối độc quyền tiêu thụ máy điều hòa không khí mang nhãn hiệu Tiến Hà tại thị trường khu vực Miền Nam từ Khánh Hòa đến Cà Mau. Thời gian của hợp đồng là hai năm, bắt đầu từ ngày 15/3/2008 đến hết ngày 31/12/2009. Ngày 18/3/2008 BĐ_Công ty Điện lạnh Tiến Hà và NĐ_Công ty Tú Minh tiếp tục ký kết Bản ghi nhớ quy định về kênh phân phối hàng hóa, chính sách và giá bán cũng như về chế độ bảo hành đối với sản phẩm Tiến Hà Việt Nam.

1354/2008/DSPT
18-11-2008
Phúc thẩm
1354/2008/DSPT
TAND cấp tỉnh

Ngày 19-5-2007 ông NĐ_Lương Văn Trê và ông BĐ_Phạm Kinh Long có ký hợp đồng đặt cọc trị giá 100.000.000 đồng (một trăm triệu) để mua căn nhà 90/618B LTK phường T, quận GV - Ngày 21-5-2007 ông NĐ_Lương Văn Trê cho ông BĐ_Phạm Kinh Long vay số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng), thời hạn vay là 1 tháng, không ghi lãi suất. Ông BĐ_Long có thế chấp giấy tờ căn nhà 90/618B LTK, phường T, quận GV do bà LQ_Nguyễn Thị Hương là chủ sở hữu. Do đã hết thời hạn ký hợp đồng mua bán nhà và thời hạn trả nợ, ông NĐ_Trê đã nhiều lần nhắc nhở nhưng ông BĐ_Long vẫn không thực hiện nghĩa vụ. Ngày 6-11-2007 bà LQ_Nguyễn Thị Hương là mẹ của ông BĐ_Long có làm giấy hẹn nợ sẽ trả hết số tiền 150.000.000 dồng (một trăm năm mươi triệu đồng) trong thời hạn là 3 tháng nhưng sau đó vẫn không thực hiện. Nay ông NĐ_Trê yêu cầu ông BĐ_Long trả lại số tiền 150.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi suất.