cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 25 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
01/2015/HNGĐ-ST: Tranh chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng
28-01-2015
Sơ thẩm
01/2015/HNGĐ-ST
TAND cấp huyện

Theo đơn khởi kiện ngày 08/6/2009 và đơn khởi kiện bổ sung của nguyên đơn ông NĐ_Nguyễn Đức Thành có bà Lê Thị Tú và ông Trần Văn Hạ đại diện theo ủy quyền trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa: Nguồn gốc căn nhà số 90 đường số B Khu định cư Tân Quy Đông, phường TP, Quận Y, Thành phố HCM (số cũ 17 lô B Khu phố 2, phường TH, Quận Y, Thành phố HCM) là lô đất nền tái định cư của bà Nguyễn Thị Nhỏ. Năm 1997 bà Nhỏ chuyển nhượng lại cho bà LQ_Nguyễn Thị Hồng và ông LQ_Phan Thế Kha với giá 130.000.000 đồng, bà LQ_Hồng, ông LQ_Kha tự xây dựng căn nhà cấp 4 để ở.

56/2014/DS-GĐT: Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
24-02-2014
56/2014/DS-GĐT

Chị NĐ_Hân và anh BĐ_Hoan kết hôn tháng 2/1995, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Quang, huyện BQ. Chung sống đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Ngày 29/3/2010 chị NĐ_Hân khởi kiện xin ly hôn anh BĐ_Hoan. Vợ chồng có hai con chung là cháu Nguyễn Thành Trung, sinh ngày 30/8/1995, cháu Nguyễn Ngọc Hiếu, sinh ngày 6/8/2004. Chị NĐ_Hân có nguyện vọng được nuôi cả hai cháu, yêu cầu anh BĐ_Hoan cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng/cháu/tháng (tại phiên tòa sơ thẩm chị không yêu cầu anh BĐ_Hoan cấp dưỡng nuôi con nữa). Anh BĐ_Hoan cũng có nguyện vọng nuôi cả hai con, không yêu cầu chị NĐ_Hân cấp dưỡng nuôi con.

05/DS-GĐT: Ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
17-01-2014
05/DS-GĐT

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai chị NĐ_Phạm Thị Thương trình bày: Tôi và anh BĐ_Trần Anh Tú có kết hôn hợp pháp vào năm 1995 tại UBND phường Cẩm Sơn, thị xã CP, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Tôi và anh BĐ_Tú sống hạnh phúc đến năm 2008 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn do anh BĐ_Tú đi làm thường xuyên về nhà muộn, chơi bời rồi về nhà gây sự, đánh đập, chửi bới tôi. Từ lý do đó tôi và anh BĐ_Tú thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau, có lần hàng xóm phải can thiệp. Ngoài ra, anh còn không bênh vực tôi khi tôi có va chạm với gia đình bên nội. Từ tháng 10 năm 2011, do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, tôi đã đưa con nhỏ đi chỗ khác ở; nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn.

147/2013/DS-GDT
16-12-2013
147/2013/DS-GDT

Theo đơn khởi kiện ngày 20-8-2004 và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Đức Anh (do ông Võ Thanh Tùng đại diện) trình bày: Năm 1975, ông chung sống với bà Lã Thị Bích Liên, ngày 5-12-1976 ông và bà Liên đăng ký kết hôn. Năm 1979, vợ chồng ông mua căn nhà số 526 An Dương Vương, phường 9, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh của cụ Tiêu Mộc. Do không có hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh nên ông để bà Liên đứng tên và để giảm thuế hai bên không lập hợp đồng mua bán mà ngày 07-6-1979 cụ Tiêu Mộc lập “Giấy ủy quyền” cho bà Liên căn nhà trên. Ngày 29-8-1979, Sở Quản lý nhà đất thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép cho nhà số 926/GP-SNĐ.

254/2013/HNGĐ-ST
20-06-2013
Sơ thẩm
254/2013/HNGĐ-ST
TAND cấp huyện

Bà và ông BĐ_Nguyễn Duy Tha kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 13, Quận X. Bà và ông BĐ_Tha chung sống với nhau hạnh phúc đến cuối năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn và cả hai đã tự sống ly thân đến nay. Nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau. Mâu thuẫn vợ chồng kéo dài ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy, bà xin được ly hôn với ông BĐ_Tha để ổn định cuộc sống. Tại biên bản tự khai ngày 17/01/2012 của ông BĐ_Tha đối với yêu cầu ly hôn của bà NĐ_Hà, ông BĐ_Tha xác định ông vẫn còn thương vợ con nên ông không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, trong các biên bản hòa giải và làm việc sau đó, ông BĐ_Tha xác định trong quá trình chung sống giữa ông và bà NĐ_Hà có xảy ra mâu thuẫn đến nay tình cảm vợ chồng không thể đoàn tụ được nữa nên ông đồng ý ly hôn để trả tự do cho nhau.