- Điều 1: Giải thích các từ ngữ
- Điều 2: Đối tượng hợp đồng
- Điều 3: Giá trị hợp đồng
- Điều 4: Thanh toán
- Điều 5: Trách nhiệm của Bên A
- Điều 6: Trách nhiệm của Bên B
- Điều 7: Giấy chứng nhận QSHNƠ & QSDĐƠ
- Điều 8: Bất khả kháng
- Điều 9: Miễn trách nhiệm
- Điều 10: Bảo hành
- Điều 11: Thông tin và thông báo
- Điều 12: Các điều khoản khác
- Điều 13: Chấm dứt hợp đồng
- Điều 14: Chuyển giao quyền và nghĩa vụ
- Điều 15: Điều khoản chung
Bà NĐ_Thủy tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất với bà BĐ_Chín đối với thửa đất số 218 tờ bản đồ số 32, diện tích 123,8m2, thuộc TT PH, huyện ĐĐ. Đất hiện tại chưa có giấy chứng nhận QSD đất và các bên đương sự cũng không có các giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật Đất đai. Nguồn gốc thửa đất này các bên đương sự đều thừa nhận là của bà Nguyễn Thị Quá (là mẹ bà NĐ_Thủy) có trước giải phóng.
Ngày 06/10/2003, vợ chồng bà NĐ_Hảo, ông LQ_Dũng cùng với vợ chồng ông LQ_Lê Quốc Nam, bà LQ_Nguyễn Thị Thu Trang và vợ chồng bà BĐ_Dương Thị Thúy, ông BĐ_Lê Quốc Đạt hùn vốn chuyển nhượng của ông Phạm Văn Phòng diện tích đất 10.046m2 thuộc thửa 585, tờ bản đồ 24 tọa lạc tại xã HL, thị xã BR. Mỗi bên góp vốn 114.666.667 đồng. Bà NĐ_Hảo đại diện ký hợp đồng chuyển nhượng đất với ông Phòng và đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn ông LQ_Nam là Người giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các bên thỏa thuận mọi biến đổi về lô đất phải có ý kiến bàn bạc chung, không ai tự ý làm riêng. Năm 2006, vợ chồng bà NĐ_Hảo hỏi ông LQ_Nam về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông LQ_Nam quanh co nên vợ chồng Bà đến xem đất.
Tại đơn kiện ngày 27/4/2002 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là chị NĐ_Nguyễn Thị Mai trình bày: Năm 1992 vợ chồng chị vay của ông BĐ_Nguyễn Phúc Vinh 120 kg thịt lợn móc hàm (tính thành tiền là 1.200.000 đồng) và 500.000 đồng; năm 1993 vay thêm 3.000.000 đồng nữa (tính lãi theo quy định của ngân hàng), cộng là 4.700.000 đồng; vợ chồng chị hẹn cuối năm 1993 sẽ trả. Cuối năm 1993, ông BĐ_Vinh đòi nợ, do không có tiền trả nợ nên anh NĐ_Bùi Văn Tài (chồng chị) đã thế chấp 6 thửa ruộng cho ông BĐ_Vinh để làm tin (nguồn gốc ruộng này của vợ chồng ông LQ_Quách Ngọc Kiên cho vợ chồng chị mượn canh tác). Năm 1995, chị lại vay thêm của bà BĐ_Trần Thị Lan (vợ ông BĐ_Vinh) 200.000 đồng. Như vậy, vợ chồng chị đã vay của vợ chồng ông BĐ_Vinh, bà BĐ_Lan số tiền là 4.900.000 đồng.
Bà BĐ_Vinh cho rằng: Các khoản tiền có biên nhận nợ và không có biên nhận nợ bà đã trả hết cho bà NĐ_Ca bằng nền nhà, đất và tiền mặt. Đối với số nợ 737.500.000 đồng bà BĐ_Vinh cho rằng bà nhờ bà NĐ_Ca đứng tên nên khi bán đất bà được quyền lấy tiền. Đối với phần đất tại hẻm 127 MT nối dài bà NĐ_Ca lúc đầu mua 06 nền ở hướng Đông, sau đó đã đổi sang 6 nền ở hướng Tây. Giá 1 nền 55.000.000 đồng bà NĐ_Ca đã đưa 180.000.000 đồng, ngoài ra bà NĐ_Ca chỉ đưa tiền để đóng thuế đất, nay bà không đồng ý tiếp tục cho bà NĐ_Ca mà yêu cầu phía bà NĐ_Ca và các con cháu của bà NĐ_Ca phải giao trả đất cho bà, bà sẽ giao trả lại phần tiền ứng trước cùng với lãi suất Ngân hàng đối với các khoản tiền này.
Tại đơn khởi kiện đề ngày 02-4-2002 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà NĐ_Trần Thị Hà trình bày: Ông BĐ_Trần Văn Sâm là em ruột của bà; năm 1982 bà đưa ông BĐ_Sâm từ Miền Bắc vào ở cùng với bà, năm 1987 bà nhập hộ khẩu cho ông BĐ_Sâm vào cùng hộ khẩu của gia đình bà và xin việc làm cho ông BĐ_Sâm tại Công ty khoan cấp nước, thời điểm đó ông BĐ_Sâm chưa đủ tiêu chuẩn được cấp đất nên bà làm thủ tục xin một lô đất theo tiêu chuẩn gia đình liệt sỹ (ông Trần Văn Quế, em trai của bà là liệt sỹ) để làm nhà ở, nhưng để ông BĐ_Sâm đứng tên với ý định sau này bà sẽ đưa bố và ông Trần Văn Tám (em trai của bà) vào ở (vì bà đã có nhà ở riêng), do đó Sở xây dựng tỉnh ĐN đã cấp 250m2 đất đứng tên ông BĐ_Sâm; sau khi được cấp đất, bà bỏ tiền san ủi mặt bằng, đền bù tiền hoa màu, lấn thêm đất xung quanh nên diện tích đất hiện nay là 404m2; đồng thời bà bỏ tiền ra xây dựng căn nhà cấp 4 và cho ông BĐ_Sâm ở tại căn nhà này (vì trước đó ông BĐ_Sâm vẫn ở chung cùng với gia đình bà);