- Điều 1: Nhà thuê
- Điều 2: Thời hạn thuê
- Điều 3: Giá thuê
- Điều 4: Đặt cọc
- Điều 5: Thuế và chi phí
- Điều 6: Bàn giao nhà
- Điều 7: Sửa chữa và lắp đặt
- Điều 8: Bảo trì, bảo dưỡng căn nhà
- Điều 9: Cho thuê lại
- Điều 10: Nghia vụ của các bên
- Điều 11: Chấm dứt hợp đồng
- Điều 12: Vi phạm, phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
- Điều 13: Sửa đổi hợp đồng
- Điều 13: Bất khả kháng
- Điều 15: Thông tin bảo mật
- Điều 16: Ngôn ngữ
- Điều 17: Giải quyết tranh chấp
- Điều 18: Điều khoản cuối cùng
Ngày 29/12/2010, NĐ_Công ty phát triển nhà Thánh An (nay là NĐ_Công ty TNHH một thành viên Địa ốc Thánh An) có ký với bà BĐ_Nguyễn Thị Hoa Hợp đồng cho thuê nhà số 214/HĐTN-PTN để cho bà Hạnh thuê căn hộ 104, tầng 2 (lầu 1) Khu tạm cư NTL, phường 13, quận BT, với giá thuê là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng/tháng, ngày nhận bàn giao nhà là ngày 31/12/2010, thời hạn hợp đồng từ ngày 31/12/2010 đến ngày 30/6/2011. Khi đôi bên ký hợp đồng thuê nhà thì bà Hạnh có đặt cọc cho Công ty số tiền là 2.354.000 (hai triệu ba trăm năm mươi bốn ngàn) đồng tương đương với 02 (hai) tháng tiền thuê nhà. Sau đó bà Hạnh đã thanh toán cho Công ty được 01 tháng tiền thuê nhà từ ngày 30/12/2010 đến 30/01/2011 là 1.177.000 (một triệu một trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng. Từ ngày 01/02/2011, bà Hạnh đã ngưng không thanh toán tiền thuê nhà cho Công ty cho đến nay.
Trong bản tự khai, các biên bản lập tại Tòa, Ông BĐ_Trương Minh Quân và bà BĐ_Lê Thị Hân (bị đơn) xác nhận đã thuê nhà của ông NĐ_Cần từ năm 2002, việc thuê nhà chỉ thỏa thuận miệng, không làm văn bản, giá thuê nhà ban đầu là 800.000 đồng, đến giữa năm 2010 bị đơn tự nguyện trả mỗi tháng là 1.500.000 đồng. Bị đơn xác nhận còn nợ tiền thuê nhà của nguyên đơn nhưng ít hơn số tiền nguyên đơn nêu ra. Tuy nhiên do khi thuê nhà, nguyên đơn có hứa là khi nào nhận được tiền đền bù giải tỏa sẽ hỗ trợ bị đơn vì có công tôn tạo lại căn nhà cũ nát và bồi đắp đường đất sạt lở và nhờ bị đơn đã giữ gìn, bồi đắp nhà đất nên nguyên đơn mới nhận được tiền đền bù giải tỏa. Bị đơn sẽ trả lại nhà đã thuê nếu nguyên đơn hỗ trợ 300.000.000 đồng là số tiền bị đơn cho rằng đã bỏ ra để chống sạc lỡ, tôn tạo, sửa chữa nhà mới ở được.
Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, bà NĐ_Hân đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình được thỏa thuận trong hợp đồng, không vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào. Tuy nhiên, từ thời điểm giao nhà cho đến nay, bà BĐ_Trang đã cố ý vi phạm các nghĩa vụ của bên cho thuê nhiều lần, qua việc bà BĐ_Trang thường xuyên xúc phạm đến danh dự nhân phẩm để vu khống bà NĐ_Hân, gây rối và cố ý phá hoại tài sản của bên thuê được đặt trong diện tích thuê, mục đích cản trở hoạt động kinh doanh của bên thuê làm ảnh hưởng và thiệt hại rất nghiêm trọng và không thể tiếp tục kinh doanh bình thường được
Tuy nhiên, đến ngày 01/08/2014 NĐ_Công ty Tâm Lan đã đơn phương vi phạm hợp đồng khi tự ý ký “thỏa thuận chuyển giao Hợp đồng thuê” chuyển giao toàn bộ quyền và nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đã ký với BĐ_Công ty Trà Lâm cho LQ_Công ty CP Tập Đoàn Quản lý BĐS Winston (dưới đây gọi tắt là LQ_Công ty Winston) trong khi chưa thông báo, và chưa được sự chấp thuận của BĐ_Công ty Trà Lâm bằng văn bản.