cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 184 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
04/2010/DS-GĐT
03-03-2010
04/2010/DS-GĐT

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05-11-2007 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Kiều Thị Tý trình bày: Năm 1996, vợ chồng bà có mua 02 căn nhà cấp 4 trên diện tích đất thổ cư khoảng 160m2 của gia đình ông Lê Văn Ngự tại xã Xuân La, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội (nay là tổ 11, cụm 2, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội). Việc mua bán hai bên có lập hợp đồng, có ghi rõ những tài sản, nhà trên đất và các mặt tiếp giáp của thửa đất. Do vợ chồng bà chưa có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội, nên chính quyền địa phương không xác nhận việc mua bán giữa gia đình bà và gia đình ông Ngự. Giá mua là 110 cây vàng, bà đã trả đủ cho vợ chồng ông Ngự và gia đình ông Ngự đã giao nhà, đất cho bà quản lý, sử dụng.

141/2009/DSPT
30-11-2009
Phúc thẩm
141/2009/DSPT
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn, ông NĐ_Trần Duy Hiền xác định yêu cầu khởi kiện, như sau: Ngày 20/01/2006, Ong đã lập hợp đồng về việc nhận chuyến nhượng của vợ chồng ông BĐ_Chu Đức Minh và bà BĐ_Lê Thị Xinh lô đất có diện tích 72,30m2 (rộng 4,50m X dài 16,07m), số C5-2/45, thuộc tờ bản đồ quy hoạch khu Trung tâm Chí Linh, phường Y (cũ) nay là phường TN, thành phố VT, với giá 250.000.000 đồng (Giấy tự lập, không qua công chứng, chứng thực của chính quyền địa phương). Trong đó, hai bên có thoả thuận vói nội dung: Trả đủ số tiền trên ngay sau khi ký hợp đồng. Nếu vì bất kỳ lý do gì mà bên B (bên mua) không mua thì bị mât tiên đã giao là 250.000.000 đồng. Nếu vì bất kỳ lý do gì mà bên A (bên bán) không bán thì bị phạt gấp hai lần số tiền mà bên B đã thanh toán, cụ thể là 500.000.000 đồng.

505/2009/DS-GĐT
19-10-2009
505/2009/DS-GĐT

Theo đơn khởi kiện ngày 27/5/2003 và quá trình tố tụng bà NĐ_Nguyễn Kim Hoa trình bày: Ngày 15/7/1999 bà và bà NĐ_Hoa lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 608,6m2 thuộc thửa số 146, 148 tờ bản đồ thứ 3 tọa lạc tại 55/4 khu phố 3, phường TX, quận A, trừ đi diện tích 76,6m2 năm trong lộ giới hành lang đường bộ còn lại 532m2 với giá 600.000 đồng/ 1m2, tổng số tiền là 319.200.000 đồng. Cùng ngày bà thanh toán đợt 1 là 170 triệu đồng, số còn lại sẽ giao nốt khi hoàn tất thủ tục sang tên và số tiền này sẽ chia làm 2 đợt, mỗi đợt một nửa. Khi bà giao tiền lần. 1 cho bà BĐ_Hằng có giao đất cho bà, bà có nhờ bà BĐ_Hằng thuê người làm hàng rào. Sau khi rào xong 1 ngày thì bà phát hiện đất của bà bị rào sai, lấn sang đất của bà 1m ngang nên bà đã mời bà BĐ_Hằng qua nói chuyện. Sau đó 2 ngày thì bà BĐ_Hằng tự ý bẻ khóa và thay khóa mới nên bà không thể vào đất của bà được.

217/2009/DS-ST
18-09-2009
Sơ thẩm
217/2009/DS-ST
TAND cấp huyện

Nguyên đơn anh NĐ_Đặng Văn Hoa đại diện luôn cho các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo giấy ủy quyền, trình bày theo đơn khởi kiện và lời khai tại tòa: Ngày 21/3/2002, anh chuyển nhượng lại của ông BĐ_Bình và bà BĐ_Lương Thị Doan một phần đất thổ cư diện tích 220m2, ngang 10m giáp lộ xã, dài 22m, với giá tiền là 20.000.000 đồng. Thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất, anh đã giao cho ông BĐ_Bình 14.000.000 đồng, số còn lại vào ngày 16/6/2004 anh đã giao trực tiếp cho ông BĐ_Bình 6.000.000 đồng, xem như anh đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông BĐ_Bình / bà BĐ_Doan, anh cũng đã được nhận đất cất nhà ở từ tháng 3/2002 cho đến nay. Khi chuyển nhượng đất ông BĐ_Bình ghi giấy tay là sang nhượng đất thổ cư, lúc này anh cũng biết là diện tích đất của ông BĐ_Bình chưa được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, kể cả phần diện tích đất chuyển nhượng cho anh cũng vậy, đến ngày 24/12/2002 ông BĐ_Bình được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

312/2009/DS-GĐT
22-07-2009
312/2009/DS-GĐT

Nguyên đơn ông NĐ_Bùi Văn Cần và bà NĐ_Dương Thị Chi khai như sau: Nguồn gốc toàn bộ 7.898m2 đất tại thửa số 150 và 151 là do vợ chồng ông chuyển nhượng lại của bà Trương Thị Nở, có lập giấy tay và được Trưởng ấp Lý Văn út xác nhận, ông NĐ_Cần đăng ký quyền sử dụng đất năm 1992, năm 1995 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ông NĐ_Cần chuyển nhượng đất của bà Nở, tại thửa 151 có căn nhà của vợ chồng ông BĐ_Minh, bà BĐ_Liên. Do hoàn cảnh ông BĐ_Minh bà BĐ_Liên khó khăn nên ông kỊiông yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Minh dọn đi ngay mà vẫn để thời gian cho ông BĐ_Minh, bà BĐ_Liên thu xếp, khi nào ông cần sử dụng thì ông sẽ báo trước vài tháng để vợ chồng ông BĐ_Minh trả đất. Tuy nhiên trong quá trình ở trên đất này, vợ chồng ông BĐ_Minh đã cho các con cất nhà và lấn thêm đất. Ông NĐ_Cần đã ngăn chặn nhưng vợ chồng ông BĐ_Minh bà BĐ_Liên vẫn không nghe mà ngày càng mở rộng diện tích đất sử dụng. Diện tích tranh chấp được xác định là 572m2. Chính quyền địa phương đã có hòa giải nhưng không thành nên ông NĐ_Cần khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông BĐ_Minh, bà BĐ_Liên trả đất.