cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 184 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
117/2008/DSPT
23-04-2008
Phúc thẩm
117/2008/DSPT
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn bà NĐ_Nguyễn Ngọc Tán trình bày: vào ngày 18-5-1993 bà NĐ_Tán có chuyển nhượng cho bà Thị Thân và bà BĐ_Thị Diên với diện tích đất thổ cư ngang 9m X dài 18m tọa lạc tại ấp Thứ Hai, thị trấn Thứ Ba, huyện AB với giá 2 chi vàng 24K Việc chuyển nhượng có làm giấy viết tay được chính quyền ấp, xã xác nhận và bà BĐ_Thị Diên trực tiếp nhận đủ số vàng trên. Sau khi chuyển nhượng xong bà BĐ_Thị Diên xin ở lại trên đất 3 tháng sẽ chuyển đi giao đất cho bà NĐ_Tán. Nhưng do bà NĐ_Tán chưa có nhu cầu sử dụng đất nên bà BĐ_Diên tiếp tục ở. Đến năm 1998 bà tình yêu cầu cơ quan địa chính đo đạc để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đo đạc bà BĐ_Thị Diên cùng gia đình trực tiếp chỉ ranh mốc, sau khi đo đạc làm thủ tục cấp giấy thì bà BĐ_Diên không ký và nói không bán, xảy ra tranh chấp đến nay. Khi chuyển nhượng đến nay bà NĐ_Tán trực tiếp nộp thuế và được ủy ban nhân dân huyện AB giải quyết buộc bà BĐ_Thị Diên giao đất cho bà NĐ_Tán, nhưng bà BĐ_Diên vẫn không thực hiện.

118/2008/DSPT
23-04-2008
Phúc thẩm
118/2008/DSPT
TAND cấp tỉnh

Nguyên đơn ông NĐ_Linh trình bày: vào năm 1989-1990 ông có chuyển nhượng cho ông BĐ_Mã 3 công đất ruộng tầm, tọa lạc tại ấp TA 1, xã TT, huyện TH, tỉnh KG 3 công X 2 chỉ vàng 24k = 6 chỉ vàng 24k. Năm 1990 ông chuyển nhượng thêm 4,5 công tầm 3m với giá 18 chi vàng 24k (4,5 X 4 chỉ vàng = 24k). Khi chuyển nhượng không có làm giấy tờ gì nhưng ông có hứa khi nào ông BĐ_Mã trả nợ cho ông, ông sè cho chuộc lại 02 công ở sau hè nhà gần đất thổ cư trong 4,5 công (phần này có làm giấy thỏa thuận cho chuộc lại đất). Sau khi chuyến nhượng thì ông canh tác từ năm 1989-1990 đến năm 2003-2004 thì ông cho anh Nguyễn Văn Trường thuê 19,5 công đất, trong đó có 7,5 công ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã, ông cho thuê với giá 1 công = 20 giạ lúa/năm. Đến năm 2005 thì ông BĐ_Mã vào canh tác phần đất 4,5 công tầm 03m đến nay là 2 năm. Phần đất 7,5 công hiện nay ông BĐ_Mã đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất. Phần này năm trong 03 thửa, ông không xác định thửa nhưng ông xác định Phòng tài nguyên môi trường huyện TH đo đạc ngày 12-7-2007 là đúng vị trí đất ông chuyển nhượng của ông BĐ_Mã.

162/2008/DS-PT
22-04-2008
Phúc thẩm
162/2008/DS-PT
TAND cấp tỉnh

Trong đơn khởi kiện ngày 25-10-2006, ông NĐ_Nguyễn Văn Hân trình bày: Năm 2004 ông có chuyển nhượng 3,5 ha đất cho anh BĐ_Huỳnh Văn Định, giá tiền là 260.000.000đ, ông BĐ_Định trả trước 179.000.000đ, còn lại 81.000.000đ, do đất đang cầm cố cho người khác nên ông BĐ_Định thỏa thuận chuyển đổi thành 90 chỉ vàng 24k và đến năm 2006 trả hoàn tất rồi ông NĐ_Hân giao đất, khu vực đất chuyển nhượng tại ấp GP, xã HĐ B, do LQ_Nguyễn Thanh Môn đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, ông BĐ_Định và ông LQ_Huỳnh Thanh Xá là con rể của ông LQ_Nguyễn Thanh Môn đi làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và ông BĐ_Định được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 30.048m2 đất, gồm các thửa 194, 191, 188, 186, 185, 187, 183, 184, 189, 145 và 143 thuộc tờ bản đồ số 6, đến nay ông BĐ_Định chưa trả 90 chi vàng 24k nhưng sử dụng toàn bộ diện ích của ông là 3,7ha từ năm 2005, trong đó có các thửa 147, 198 và một phần thửa 141, một phần lửa 139 và một phần thửa 182, tờ bản đồ số 6. Nay ông yêu cầu ông BĐ_Định phải trả 90 chỉ vàng 24k và 2.122m2, tại thửa 194, 198.

110/2008/DS-PT
21-04-2008
Phúc thẩm
110/2008/DS-PT
TAND cấp tỉnh

Ông NĐ_Phan Trung Thành trình bày: Vào năm 2000 ông BĐ_Tranh vay của ông 5.000.000 đồng và năm 2001 ông BĐ_Tranh vay thêm 10 chỉ vàng 24k, tiền 10.000.000 đồng, lãi sụất thỏa thuận là 50%/năm, thời hạn vay là 12 tháng, nhưng ông BĐ_Tranh không trả vốn vay và lãi suất cho ông. Đến tháng 1-2002, ông BĐ_Tranh kêu bán 11 công đất lúa tầm 3 mét, giá 12,5 chỉ/công bằng 137,5 chỉ vàng 24k; trừ nợ vay 60 chỉ, ông trả cho ông BĐ_Tranh 77,5 chỉ. ồng và ông BĐ_Tranh có làm giấy tay và ông cho ông BĐ_Tranh thuê lại 200 giạ lúa/năm/11 công; ông BĐ_Tranh đã thuê đến năm 2005 là 3 năm nhưng ông BĐ_Tranh không trả lúa thuê cho ông. Từ đó ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi Tòa án hòa giải thì ông BĐ_Tranh thống nhất trả cho 160 chỉ vàng 24k. Năm 2006 ông BĐ_Tranh thống nhất giao cho ông 16.848,9m2 đất lúa để trừ 160 chỉ vàng 24k. Sau đó ông cho con tên là LQ_Phan Ngọc Minh đứng tên, ngày 21-4-2006 ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho LQ_Phan Ngọc Minh và vợ là LQ_Nguyễn Thị Niên; LQ_Minh cho LQ_Văn Thanh Vĩnh thuê hàng năm. Nay ông yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và ông BĐ_Tranh và yêu cầu được tiếp tục canh tác 16.848,9m2 đất lúa mà ông BĐ_Tranh đã giao cho ông.

96/2008/DSPT
21-04-2008
Phúc thẩm
96/2008/DSPT
TAND cấp tỉnh

Ngày 16-3-2007 vợ chồng bà ký hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất cho ông BĐ_Lê Văn Bính, giá tiền chuyển nhượng là 26.000đ/m2 X 7.350m2 = 191.100.000đ. Cùng thời điểm này bà NĐ_Nguyễn Thị Bến là em ruột của ông NĐ_Thu thừa kế diện tích 7.350m2 đất của bà Nguyễn Thị Quê để lại sau khi chết vào năm 1998. Ông NĐ_Thu đồng ý cho bà NĐ_Bến chuyển nhượng luôn cho ông BĐ_Bính nên cùng vợ chồng bà đứng tên chuyển nhượng tổng diện tích 14.700m2. Tổng số tiền là 382.200.000đ. thực hiện hợp đồng phía ông BĐ_Bính viết một tờ hợp đồng ghi ngày 16-3-2007, cả 04 người cùng ký tên ông BĐ_Bính giao 65.000.000đ tiền cọc, số còn lại 317.000.000đ ông cam kết sẽ trả vào ngày 16-4-2007 và 16-5-2007, mỗi lần giao 158.600.000d và mỗi lần trả cách nhau 30 ngày rồi vợ chồng bà và bà NĐ_Bến tự chia cho nhau.