cơ sở dữ liệu pháp lý

Thông tin sử dụng
  • Tên hợp đồng:

    HỢP ĐỒNG THUÊ VĂN PHÒNG - Bên cho thuê và Bên thuê (MS 01)

  • Đánh giá:
  • Số lượng các bên: 2
  • Mã hợp đồng: mbWUWSJLsV
  • Yêu cầu công chứng: Khi có nhu cầu và trong phạm vi CC
  • Ngôn ngữ:
  • Số lượng điều khoản: 27 điều

Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 59 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
43/2006/KDTM-ST
24-05-2006
Sơ thẩm
43/2006/KDTM-ST
TAND cấp tỉnh

Theo đơn khởi kiện ngày 24 tháng 8 năm 2005 và tại các lời khai, nguyên đơn, NĐ_Công ty Điện máy - Xe đạp - Xe máy Lĩnh An trình bày: Nguyên đơn có ký hợp đồng cho bị đơn – BĐ_Công ty TNHH Nga Phương thuê nhà xưởng để làm việc tại 42 ngõ 67 phố ĐG, LB, HN. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền thuê theo hợp đồng, nên nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn chấm dứt hợp đồng với các yêu cầu sau:  Bị đơn trả lại toàn bộ diện tích thuê.  Hoàn trả toàn bộ tiền thuê nhà còn thiếu là 308.000.000 đồng và lãi là 24.976.875 đồng.

97/2006/DS-GĐT
18-05-2006
97/2006/DS-GĐT

Theo anh Thân Văn Hạn (được bà NĐ_Hoàng Thị Tuyết ủy quyền) trình bày trong đơn khởi kiện và lời khai như sau: Nguồn gốc thửa đất 490m2 hiện anh Thân Văn Phàm (con trai bà NĐ_Tuyết) và bà BĐ_Thân Thị Biện đang ở là của bố mẹ anh là ông Thân Văn Nghi và bà NĐ_Hoàng Thị Tuyết. Năm 1972, bố anh xin ra khỏi hợp tác xã và đã đổi 12 thước ruộng cho ông Đào Văn Kiểm để lấy thửa đất này. Sau đó bố mẹ anh làm nhà ở. Năm 1985 bố mẹ anh thấy bà BĐ_Biện (bà BĐ_Biện là em ruột bố nuôi) sống độc thân nên đã đồng ý để bà BĐ_Biện ra ở 3 gian nhà nhỏ cấp 4 trên phần đất đổi cho ông Kiểm để bà BĐ_Biện bán nước sinh sống, cũng năm đó thì bố mẹ anh cho anh Thân Văn Phàm ra ở 4 gian nhà cấp 4 cùng trên mảnh đất với bà BĐ_Biện. Năm 1986 bà BĐ_Biện đã dở nhà cũ xây lại nhà mới ở đến nay.

10/2006/DS-GĐT
11-05-2006
10/2006/DS-GĐT

Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay. Tuy nhà đất thuộc sở hữu chung của cụ Kiềm và các nguyên đơn, nhưng do cụ Kiềm hoàn cảnh khó khăn nên các nguyên đơn để cho cụ Kiềm thu tiền thuê nhà sử dụng chi tiêu hàng tháng.

10/2006/DS-GĐT
11-05-2006
10/2006/DS-GĐT

Theo các nguyên đơn thì: Căn nhà số 83 phố ĐC trước đây là căn nhà gạch một tầng nằm trên thửa đất có diện tích 65m2, có nguồn gốc là nhà đất của ông bà nội của các nguyên đơn bỏ tiền ra mua khoảng năm 1943 nhằm để cho con dâu (là cụ Kiềm) cùng các cháu nội (là các nguyên đơn) sử dụng. Do bố của các nguyên đơn là cụ Dương Văn Cách đã chết từ năm 1938 và cụ Kiềm khi đó còn trẻ có khả năng lấy chồng khác, để bảo vệ quyền lợi cho các cháu của mình, ông bà nội của các nguyên đơn đã để cho các nguyên đơn cùng cụ Kiềm đứng tên sở hữu chung đối với nhà đất trên. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên các nguyên đơn đã làm thất lạc và hiện không còn giấy tờ gì về nhà đất nói trên. Năm 1959 gia đình nguyên đơn cho Tổ hợp tác Tự cứu thuê, năm 1963 thì Tổ hợp tác Tự cứu trả lại, cụ Kiềm tiếp tục cho gia đình bà BĐ_Tòng thuê ở từ năm 1963 đến nay.