- Điều 1: Định nghĩa và giải thích từ ngữ
- Điều 2: Đối tượng hợp đồng
- Điều 3: Mục đích thuê
- Điều 4: Thời hạn thuê, thời hạn của hợp đồng và gia hạn
- Điều 5: Tiền thuê và thanh toán
- Điều 6: Quyền và nghĩa vụ của Bên Thuê
- Điều 7: Quyền và nghĩa vụ của Bên Cho Thuê
- Điều 8: Cho thuê lại, chuyển nhượng quyền thuê Văn Phòng
- Điều 9: Trang trí nội thất, lắp đặt và sử dụng thiết bị, máy móc, tài sản cố định
- Điều 10: Đỗ xe
- Điều 11: Vệ sinh
- Điều 12: Điện, nước
- Điều 13: Điều hòa không khí
- Điều 14: Điện thoại và mạng thông tin
- Điều 15: Công trình tiện ích
- Điều 16: Sửa chữa và bảo dưỡng
- Điều 17: An ninh
- Điều 18: Bảo hiểm
- Điều 19: Kiểm tra văn phòng
- Điều 20: Vi phạm hợp đồng
- Điều 21: Chấm dứt hợp đồng
- Điều 22: Bất khả kháng
- Điều 23: Nội quy
- Điều 24: Thông báo
- Điều 25: Điều khoản chung
- Điều 26: Điều khoản thi hành
Căn nhà 580/30 (720/30) ÂC, Phường 14, quận TB, Thành phố HCM là tài sản chung của vợ chồng ông NĐ_Trần Quốc Vân. Ông NĐ_Trần Quốc Vân và bà LQ_Bùi Thị Kim Linh đã mua căn nhà này trước khi kết hôn cụ thể vào năm 1999 nhưng hai bên thống nhất để bà LQ_Linh đứng tên một mình. Năm 2002 vợ chồng xây dựng mới lại căn nhà và đến năm 2010 mới hoàn công nhà. Năm 2008 do hai vợ chồng bận công việc nên ủy quyền lại cho bà LQ_Hoa để quản lý nhà và làm thủ tục hoàn công nhà. Năm 2012 bà LQ_Linh không được sự đồng ý của ông đã cho BĐ_Công ty Thanh Nga thuê. Ông NĐ_Vân yêu cầu hủy hợp đồng thuê và bị đơn trả lại nhà cho nguyên đơn. Lý do khi cho thuê nhà ông không được biết và nhà là của 02 vợ chồng tự một mình bà LQ_Linh ủy quyền để cho thuê là không đúng, bên cạnh theo như hợp đồng thuê thì có thỏa thuận về việc khi chủ nhà bán nhà thì bị đơn trả nhà mà không phải bồi thường tiền cọc. Nay nhà đã được bán cho ông LQ_Trần Chí Đinh, phía nguyên đơn đã có thông báo cho bị đơn biết về việc bán nhà nên nay cần chấm dứt hợp đồng thuê nhà, phía bị đơn phải trả lại nhà để nguyên đơn giao nhà cho người mua.
Ngày 21/4/2009 ông đã mua nhà đất của chị BĐ_Hương tại số 33, ngách 23, ngõ 118, tổ 3, phường BĐ, quận LB. Khi mua hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại phòng công chứng số 1A Nguyễn Khánh Toàn, quận Cầu Giấy, thành phố HN. Theo nội dung hợp đồng nêu trên thì chị BĐ_Hương bán cho ông nhà và đất thuộc địa chỉ nêu trên. Đất có diện tích 24,76m2, trên đất có 01 nhà bê tông 2 tầng, diện tích xây dựng là 24,76m2 với giá 500.000.000 đồng. Nhà đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà BĐ_Chu Thị Hương. Sau khi lập hợp đồng xong bà BĐ_Hương cầm hợp đồng về, ông đã đến nhà giao đủ cho bà BĐ_Hương 500.000.000 đồng tại nhà bà BĐ_Hương và lấy lại hợp đồng, bà BĐ_Hương đã viết biên bản giao nhà. Sau đó bà BĐ_Hương đã hỏi xin thuê nhà trog vòng 3 tháng để bà tìm chỗ khác và ông đã đồng ý. Khi cho bà BĐ_Hương thuê hai bên đã lập hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng thuê nhà lập cùng ngày với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Căn nhà số 51/20 AC, phường 19 (nay là 30/39/2 đường 100 BT, phường 14, quận T, thành phố HCM) do bà Trương Thị Sơ mua từ năm 1950. Đến năm 1956 bà cho ông Trần Nhĩ và bà Hà Tu thuê, không lập hợp đồng. Sau khi ông Nhĩ, bà Tu chết, con bà là Hà Lê tiếp tục ở và trả tiền thuê nhà mỗi tháng 1.200 đồng, đến năm 1975 không trả tiền thuê nhà nữa. Năm 1983, bà Sơ ủy quyền cho bà NĐ_Nguyễn Thị Minh khởi kiện ông Hà Lê đòi lại nhà. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 18/2008/DSST ngày 14/9/1983 của Tòa án nhân dân quận T đã xử buộc ông Hà Lê phải trả lại nhà cho bà Trương Thị Sơ trong hạn 12 tháng.
Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của Nguyên đơn, bà NĐ_Lê Thị Linh thì: Ngày 14/6/2012 bà và ông BĐ_Nguyễn Văn Ninh có ký hợp đồng thuê mặt bằng để làm dịch vụ chăm sóc da tại số 87 HHT, Phường 13, quận TB, Thành phố HCM. Giá thuê là 16.000.000 đồng/tháng, thời hạn hợp đồng là 02 năm kể từ ngày 29/7/2012 đến ngày 28/7/2014. Bà có đặt cọc trước 03 tháng tiền thuê mặt bằng là 48.000.000 đồng. Hợp đồng trên không được ra công chứng chứng thực.