Từ năm 2006 đến năm 2009 Ông NĐ_Hữu được Trung tâm cho đi học tại Thái Lan trong thời hạn 3 năm, đến ngày 24/8/2009 về nước và được Trung Tâm thông báo tiếp tục đảm nhiệm vị trí Trưởng cơ sở của BĐ_Trung Tâm Ngoại Ngữ Đại Học NL Tp HCM tại Trường Trung cấp nghề- kyõ thuật số 2( Địa chỉ số 12 Đường Minh Châu, Phường Bình Hòa Tp Biên Hòa Tỉnh Đồng Nai). Ông NĐ_Hữu thực hiện công việc từ ngày 24/8/2009 đền tháng 6/2010, ông NĐ_Hữu tiếp tục đi Thái Lan để bảo vệ Luận án tiến só đến tháng 9/2010 về lại trường. Thời gian về Việt Nam tháng 9/2010, do hoàn cảnh gia đình đơn chiết nên Ông NĐ_Hữu chuyển nơi ở từ Đồng Nai về Sài Gòn và chuẩn bị lập gia đình, nên vào ngày 17/9/2010 Ông NĐ_Hữu có làm đơn xin Giám Đốc Trung Tâm Ngoại ngữ cho xin nghỉ việc làm cán bộ quản lý của Trung tâm để chuyển sang việc giảng dạy (chứ không xin nghỉ việc giảng dạy).
Ngày 01/8/2009, bà NĐ_Thủy và BĐ_Công ty TNHH Minh Quân Việt Nam (BĐ_Công ty) ký hợp đồng lao động số EHC39 xác định thời hạn từ ngày 01/8/2009 đến hết ngày 31/7/2012, địa điểm làm việc: Tầng 6 Tòa nhà VFC, 29 Tôn Đức Thắng, Quận X, TP. HCM. Ngày 15/8/2011 BĐ_Công ty ban hành văn bản số MPHR 0425/HR gửi cho bà NĐ_Thủy có nội dung quy kết bà NĐ_Thủy có hành vi vi phạm và yêu cầu bà NĐ_Thủy tuân thủ các quy định tại văn bản này, trong đó buộc bà NĐ_Thủy phải ngồi tại văn phòng, không được ra ngoài, không được cung cấp máy tính, điện thoại…và ghi rõ rằng mọi hành vi đi ngược với các quy định trên được coi là vi phạm quy định.
Ông NĐ_Nguyễn Quý Đinh vào làm việc tại BĐ_Công ty Cổ phần Bao Bì Minh Anh (viết tắt là Công ty) từ ngày 31/7/2008. Đến ngày 01/01/2009, hai bên ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với công việc là Phó quản đốc, mức lương là 1.120.000 đồng/tháng. Ngày 01/01/2010, Công ty và ông NĐ_Đinh ký kết phụ lục hợp đồng thay đổi mức lương từ 1.120.000 đồng/tháng lên thành 1.911.000 đồng/tháng, các nội dung khác của hợp đồng lao động vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, trong quá trình làm việc, tiền lương thực lãnh hàng tháng của ông là 10.000.000 đồng (trong đó bao gồm tiền lương là 6.000.000 đồng; các khoản tiền phụ cấp là 4.000.000 đồng), ông luôn hoàn thành nhiệm vụ và không có gì vi phạm. Nhưng đến ngày 01/02/2011, bà Nguyễn Thị Tố Trinh (Trưởng phòng Hành chính Nhân sự Công ty) mời ông lên phòng và thông báo miệng là: Ban Tổng Giám đốc buộc ông thôi việc từ ngày 01/02/2011 và bắt ông phải làm đơn xin nghỉ việc mà không có lý do.
Theo đơn khởi kiện, ngày 30/3/2011, bản tự khai và các biên bản hòa giải của nguyên đơn bà NĐ_Ngô Thị Thu Hòa trình bày: Bà là nhân viên thủ kho của phòng đại lý bán hàng thuộc BĐ_Tổng công ty cổ phần Tiên An được tuyển dụng vào làm việc từ 01/1986 và đã ký hợp đồng không xác định thời hạn. Từ tháng 9/2009 đến tháng 4/2011 Tổng công ty không bố trí công việc cho bà. Trong thời gian này bà chỉ hưởng lương cơ bản. Ngày 06/5/2011, Tổng công ty ra quyết định số 76/QĐ-ĐSMN về việc chấm dứt hợp đồng đối với bà kể từ ngày 15/5/2011.
Tại đơn khởi kiện ngày 10/12/2010 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án nhân dân quận X, nguyên đơn là ông NĐ_Lê Thanh Linh trình bày: Từ tháng 10/1991, ông đã ký Hợp đồng lao động với Công ty Petronas Carigali Overseas Sdn Bhd – là bên nước ngoài trong Hợp đồng chia sản phẩm dầu khí lô 01 và 02 thềm lục địa Việt Nam theo giấy phép kinh doanh số 239/GP của Ủy ban nhà nước về hợp tác và đầu tư cấp ngày 10/9/1991. Trong quá trình hoạt động, toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của bên nước ngoài đã được chuyển nhượng cho bị đơn là BĐ_Công ty TNHH AT Việt Nam (sau đây gọi tắt là Công ty) theo giấy phép số 239/GPĐC2 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp ngày 21/4/2003. Bản thân ông trong những năm làm việc cho Công ty Petronas Carigali Overseas Sdn Bhd với các chức danh khác nhau, ông đã luôn hoàn thành tốt công việc và đã tái ký Hợp đồng lao động với Công ty nhiều lần.