cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 180 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
01/2013/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
22-01-2013
Sơ thẩm
01/2013/LĐ-ST
TAND cấp huyện

Vào ngày 16/10/2008, ông và BĐ_Công ty Cổ phần Xuất Nhập Khẩu và Dịch vụ Nam An (sau đây gọi tắt là Công ty) ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 03/2008/QĐ-HĐQT, công việc chính là phụ trách kế toán, mức lương thoả thuận là bậc 2/6, hệ số lương 4.66. Đến khoảng tháng 07/2009, Công ty mượn lại bản chính hợp đồng và yêu cầu ông ký lại hợp đồng số 04/HĐLĐ nhưng vẫn ghi là ký ngày 16/10/2008 với lý do là để đăng ký lên Phòng lao động thương binh xã hội, sau đó Công ty không trả lại cho ông bản chính hợp đồng số 03/2008/QĐ-HĐQT nên ông chỉ có bản phô tô. Do tin tưởng Công ty nên khi ký hợp đồng số 04/HĐLĐ ông không đọc nội dung trong đó bậc lương của ông chỉ là 1/8 và hệ số 2.34. Ông xác nhận trong hợp đồng số 03/2008/QĐ-HĐQT (bản phô tô) nộp cho tòa án thì tại Điều 3 của hợp đồng có ghi hai bậc lương: 1/8, 2/6 và hai hệ số lương: 2.34, 4.66. Lý do là khi mượn lại bản chính hợp đồng số 03/2008/QĐ-HĐQT Công ty đã tự ghi thêm vào bậc 1/8, hệ số 2.34. Đến ngày 08/12/2008 Công ty ra quyết định (không số) nâng lương cho ông lên bậc 2/6, hệ số lương 4.66. Ngày 24/3/2009, Công ty có quyết định số 11/2009/QĐ.NA về việc bổ nhiệm ông làm Phó phòng tài chính kế toán. Tuy nhiên ông vẫn nhận lương với bậc 2/6, hệ số 4.66.

01/2013/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
17-01-2013
Sơ thẩm
01/2013/LĐ-ST
TAND cấp huyện

Ông vào làm việc tại BĐ_Công ty hàng da Levan ngày 18/9/1996, sau thời gian thử việc 02 tháng, Công ty ký hợp đồng lao động có thời hạn nhận ông vào làm việc, công việc được giao là tài xế. Một thời gian sau Công ty ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn (tất cả các hợp đồng Công ty không giao cho ông), công việc ông được giao vẫn là tài xế đưa đón nhân viên và thỉnh thoảng đưa đón chuyên gia (ngoài giờ hành chính), mức lương 5.235.000 đồng/tháng. Quá trình làm việc ông hoàn thành công việc, tuy nhiên thỉnh thoảng có vi phạm nội quy bị Công ty nhắc nhở. Ngày 16/4/2012 do không đưa đón chuyên gia đúng giờ nên Công ty có họp kỷ luật ông. Sau đó điều động ông qua bộ phận may đế giày. Do công việc này không đúng chuyên môn nên ông không nhận nhiệm vụ. Ngày 07/5/2012 ông nhận quyết định xử lý kỷ luật của Công ty, ngày 26/5/2012 ông nhận trợ cấp thôi việc với số tiền 32.719.000 đồng. Mặc dù đã nhận trợ cấp thôi việc nhưng Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông là trái quy định pháp luật nên ông yêu cầu huỷ quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và yêu cầu Công ty phải nhận ông trở lại làm việc, thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc (từ 25/4/2012 đến khi được nhận trở lại làm việc) với mức lương 5.235.000 đồng. Bồi thường 02 tháng tiền lương và thanh toán các khoản tiền bảo hiểm theo quy định. Tổng cộng khoảng 51.000.000 đồng.

02/2013/LĐ-ST
09-01-2013
Sơ thẩm
02/2013/LĐ-ST
TAND cấp huyện

Nguyên đơn trình bày: Ông và BĐ_Công ty Bonnataka haghtike International (BĐ_Công ty BHI) có ký hợp đồng lao động số 098/10-HĐLĐ ngày 02/8/2010, hợp đồng xác định thời hạn 01 năm (từ 02/8/2010 đến ngày 01/8/2011), với công việc là đồ họa viên, mức lương 17.500.000 đồng/tháng. Trong quá trình làm việc ông đã nhận được Quyết định nâng bậc và tăng lương vào ngày 01/1/2011 lên 22.000.000 đồng/tháng và ngày 20/7/2011 lên 25.000.000 đồng/tháng với công việc là Kiến trúc sư - Phòng thiết kế. Khi hết hạn hợp đồng (ngày 02/8/2011), ông được công ty thông báo sẽ ký tiếp một hợp đồng xác định thời hạn 01 năm nhưng đến ngày 08/8/2011 ông được yêu cầu ký Hợp đồng lao động thời vụ 08 tháng có giá trị từ ngày 02/8/2011 đến ngày 31/03/2012, phòng nhân sự giải thích rằng đến tháng 04/2012 có thể công ty sẽ ký tiếp hợp đồng lao động với ông. Mặc dù hợp đồng chi ký có 08 tháng nhưng mức lương và vị trí công việc của ông vẫn là kiến trúc sư - Phòng thiết kế cho Dự án tòa nhà Sài Gòn M & C.

10/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
20-12-2012
Sơ thẩm
10/2012/LĐ-ST
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện và tại Toà, nguyên đơn có đại diện theo ủy quyền trình bày : ông NĐ_Trần Công Tú vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH Hàn Minh từ ngày 02/3/2011 với công việc là kỹ thuật xưởng, đến ngày 02/4/2011 BĐ_Công ty TNHH Hàn Minh có quyết định mức lương cho ông NĐ_Tú theo đó lương cơ bản là 3.900.000 đồng/một tháng, phụ cấp 5.400.000 đồng/tháng. Đến ngày 28/7/2011 BĐ_Công ty TNHH Hàn Minh có quyết định cho ông NĐ_Tú thôi việc tại Công ty với lý do : Công việc không phù hợp . Không đồng ý với việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Công ty, nên ông NĐ_Tú làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà giải quyết : Buộc BĐ_Công ty TNHH Hàn Minh phải hủy Quyết định cho thôi việc nêu trên, nhận ông NĐ_Trần Công Tú trở lại làm việc, công khai xin lỗi và bồi thường cho ông NĐ_Tú các khoản tiền gồm : 02 tháng lương + phụ cấp lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không đúng luật là 18.600.000 đồng,

95/2012/LĐ-ST: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Người sử dụng lao động)
30-11-2012
Sơ thẩm
95/2012/LĐ-ST
TAND cấp huyện

Ngày 02/5/2010 bà NĐ_Trần Thị Kim Phúc được tuyển vào làm việc tại BĐ_Công ty TNHH TM SX DV Dương Minh (gọi tắt là BĐ_Công ty Dương Minh) với công việc là nhân viên bán hàng, theo dõi hàng xuất bán ra hàng ngày, hàng nhập kho, giá cả hàng hóa, thanh toán công nợ với khách hàng, đối chiếu hàng nhập kho với thủ kho. Đến ngày 01/01/2011 bà NĐ_Phúc mới được ký hợp đồng lao động với công ty, thời hạn 01 năm. Bà NĐ_Phúc vẫn làm việc bình thường thì ngày 21/11/2011 BĐ_Công ty Dương Minh ra Quyết định số 02/Q ĐTV-2011 chấm dứt hợp đồng trước thời hạn với lý do xét thấy công việc không phù hợp cần giảm biên chế cho công ty, công ty chỉ thanh toán lương tháng 11 cho bà NĐ_Phúc với số tiền là 2.975.000 đồng, không có bất kỳ khoản trợ cấp nào khác.