Ngày 15/02/2008 ông NĐ_Nguyễn Bảo Thịnh và BĐ_Công ty TNHH đầu tư xây dựng Thân Phụng (sau gọi tắt là công ty) có ký Hợp đồng lao động số TP18/08/HĐLĐ, thời hạn hợp đồng là 12 tháng kể từ ngày 15/02/2008 đến ngày 15/02/2009, công việc làm theo bảng mô tả công việc của chức danh chuyên môn theo sự chỉ đạo của cấp trên, mức lương 2.500.000 đồng/ tháng. Sau đó, ngày 13/8/2008 ông NĐ_Thịnh và công ty tiếp tục ký Hợp đồng lao động số 08/08/HĐLĐ, thời hạn hợp đồng từ ngày 13/8/2008 đến 13/8/2009 với nội dung công việc giống bản hợp đồng đã ký trước đó, mức lương 2.380.000 đồng/ tháng. Ngày 01/01/2009 ông NĐ_Thịnh và công ty tiếp tục ký bản hợp đồng lao động thứ ba số 08/01/09/HĐLĐ-Jabes, thời hạn hợp đồng tính từ ngày 01/01/2009 đến ngày 01/01/2010, công việc phải làm theo chức danh công việc, mức lương theo hợp đồng là 2.500.000 đồng/ tháng, trên thực tế ông NĐ_Thịnh được nhận là 4.072.000 đồng/ tháng (trong đó tiền lương 2.500.000 đồng/ tháng, phụ cấp 1.070.000 đồng/ tháng, tiền cơm 17.000 đồng/ ngày, tiền giữ xe 60.000 đồng/ tháng).
Chấp nhận một phần yêu cầu của Nguyên đơn- ông NĐ_Dương Thanh Sinh: - BĐ_Công ty cổ phần cơ khí xây dựng Thanh Tú có trách nhiệm thanh toán cho ông NĐ_Dương Thanh Sinh tiền lương từ ngày 01 đến ngày 11/11/2010 là: 3.314.488 đồng và trả sổ bảo hiểm số: 7910362281 mang tên ông NĐ_Dương Thanh Sinh.
Xử: 1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu sau của nguyên đơn ông NĐ_Dương Trung Hà đối với BĐ_Ngân hàng Minh Quân-Chi nhánh TP. HCM, gồm: - Trả tiền vi phạm thời gian báo trước 30 ngày là: 55.000.000 đồng. - Trả tiền bù đắp mất tiền thưởng ở công ty cũ theo thỏa thuận đặc biệt là 35.000.000 đồng. - Yêu cầu ngân hàng nhận trở lại làm việc. - Yêu cầu trả tiền trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp là 13.000.000 đồng. Tổng cộng: 103.000.000 đồng.
Bà NĐ_Đỗ Thị Mỹ Sa bắt đầu vào làm việc cho BĐ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Đại Đồng từ ngày 03/01/2005. Thời gian đầu làm việc từ ngày 03/01/2005 đến ngày 31/05/2007 thì giữa bà NĐ_Đỗ Thị Mỹ Sa và BĐ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Đại Đồng không có ký hợp đồng lao động, bà NĐ_Sa làm công việc tại phòng hành chính nhân sự, với mức lương 1.600.000đ/tháng. Đến ngày 01/06/2007, BĐ_Công ty TNHH xây dựng thương mại Đại Đồng ký hợp đồng lao động với bà NĐ_Đỗ Thị Mỹ Sa, thời hạn hợp đồng là 01 năm, từ ngày 01/06/2007 đến ngày 31/05/2008, mức lương chính thức là 1.000.000đ/tháng, phụ cấp trách nhiệm 300.000đ/tháng, lương thoả thuận khác 2.606.000đ/tháng, tổng lương và phụ cấp là 3.906.000đ/tháng. Bà NĐ_Sa làm việc cho BĐ_Công ty Đại Đồng theo hợp đồng lao động đến hết ngày 31/05/2008, BĐ_Công ty Đại Đồng không tiếp tục ký hợp đồng lao động khác mà vẫn để cho bà NĐ_Sa tiếp tục làm việc cho Công ty bình thường.
Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc: Hủy quyết định không số ngày 05/11/2009 của Chi nhánh BĐ_Công ty CP xuất nhập khẩu thương mại Thủy Hà về việc chấm dứt Hợp đồng lao động đối với ông NĐ_Trần Ngọc Mẫn; Buộc BĐ_Công ty CP xuất nhập khẩu thương mại Thủy Hà thanh toán cho ông NĐ_Mẫn tiền lương trong những ngày ông NĐ_Mẫn không được làm việc tính từ ngày 05/11/2009 đến ngày xét xử sơ thẩm ( 30/5/2011) là 18 tháng 25 ngày cụ thể: 18 tháng x 2.600.000 đồng + 2.600.000 đồng/30 ngày x 25 ngày 48.966= 48.966.700 đồng;