cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 184 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
385/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
23-09-2014
385/2014/DS-GĐT

Nguyên đơn bà NĐ_Phan Thị Kiều, ông NĐ_Nguyễn Văn Hưng trình bày: Năm 2005 và năm 2006 Công ty TNHH Sản xuất-Thương mại-Dịch vụ Kiều Hưng do ông, bà làm chủ có thế chấp tài sản vay vốn tại Chi nhánh LQ_Ngân hàng An Thái huyện HT, tỉnh TN số tiền 8,3 tỉ đồng, sau đó có trả và còn nợ lại 6.750.000.000 đồng. Do kinh doanh thua lỗ, không có khả năng thanh toán nợ cho Ngân hàng. Khoảng tháng 10/2007 ông, bà đến thành phố HCM tìm nguồn vốn vay để trả nợ. ông, bà không quen biết ai, nhưng bà BĐ_Lê Thị Thanh Thư có bộ hồ sơ của Công ty và chủ động đến gặp ông, bà và cho rằng không thể vay được tiền vì Công ty đang nợ tiền và được đưa lên mạng, muốn vay phải sang tên Công ty lại cho bà BĐ_Thư và ký nhận nợ khống 9,5 tỉ đồng, bà BĐ_Thư có trách nhiệm trả nợ cho Công ty, sau khi trả nợ xong lấy tài sản thế chấp ra và đem về thành phố HCM thế chấp vay 20 tỉ đồng và thỏa thuận bà BĐ_Thư được hưởng hoa hồng 10% trên số tiền vay. Ông NĐ_Hưng, bà NĐ_Kiều đồng ý.

166/2014/DS-ST: Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
10-09-2014
Sơ thẩm
166/2014/DS-ST
TAND cấp huyện

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thừa nhận hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà NĐ_Ly và ông BĐ_Vinh xác lập chỉ vì mục đích đảm bảo cho số tiền vay, là phù hợp với biên nhận hợp đồng vay giữa nguyên đơn và bị đơn do phía bà NĐ_Ly cung cấp, nhưng thấy rằng hợp đồng vay của bà NĐ_Ly và ông BĐ_Vinh đã xác lập bằng văn bản là biên nhận nợ và có thế chấp giấy chứng nhận QSDĐ của ông BĐ_Vinh nên đã thỏa mãn quyền và nghĩa vụ của hai bên trong hợp đồng vay tài sản

37/2014/DS-GĐT
18-08-2014
37/2014/DS-GĐT

Nhà đất tranh chấp có chiều ngang mặt đường TP là 11,20m, dài theo hẻm 7 HT là 25,6m, nên có thể chia bằng hiện vật được. Hơn nữa, nguyên đơn yêu cầu nhận lại nhà. Đồng thời kết quả xác minh ngày 26/6/2014 về nhà ở của phía nguyên đơn thấy rằng hiện nay cụ Hiếu (vợ của cụ NĐ_Nhất) không có nhà ở LQ_Oán định nên phải đi ở nhờ các con; còn ông Giang (con của vợ chồng cụ NĐ_Nhất) vẫn ở nhờ nhà vợ. Như vậy, phía nguyên đơn đang có nhu cầu về nhà ở. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm lại chia cho những người thừa kế của cụ NĐ_Nhất nhận giá trị là không đúng với qui định tại Khoản 2 Điều 685 Bộ luật dân sự và bảo đảm quyền lợi của những người này

296/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
01-08-2014
296/2014/DS-GĐT

Ngày 14/7/2009, vợ chồng anh NĐ_Nguyễn Xuân Hào, chị NĐ_Nguyễn Thị Lan ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có diện tích 37.945m2 thuộc thửa 77, thửa 106 và thửa 109, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại xã PT, huyện LT (nay là thành phố BH), tỉnh ĐN, cho bà BĐ_Trần Thị Điệp với giá là 4.475.498.915 đồng. Theo đó, bà BĐ_Điệp đã đặt cọc số tiền 835.221.388 đồng và nhận đất sản xuất, hai bên thỏa thuận bên chuyển nhượng làm thủ tục sang tên và giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng sẽ giao số tiền còn lại cho bên chuyển nhượng trong vòng 7 ngày. Nếu quá thời hạn nêu trên mà bên nhận chuyển nhượng không giao đủ tiền thì bên chuyển nhượng có quyền hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 13/8/2009, phía anh NĐ_Hào, chị NĐ_Lan đã hoàn tất việc sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà BĐ_Điệp và thông báo để bà BĐ_Điệp đến nhận giấy và thanh toán số tiền còn lại nhưng bà BĐ_Điệp không đến. Ngày 20/8/2009, vợ chồng anh NĐ_Hào tiếp tục gửi giấy thông báo cho bà BĐ_Điệp qua đường bưu điện nhưng bà BĐ_Điệp vẫn cố tình không đến.

37/2014/DS-ST
11-07-2014
Sơ thẩm
37/2014/DS-ST
TAND cấp huyện