cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 184 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
284/2013/DSST
26-07-2013
Sơ thẩm
284/2013/DSST
TAND cấp huyện

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ông NĐ_Nguyễn Quốc Vỹ khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với bà BĐ_Trần Thị Ngọc Xu và ông BĐ_Nguyễn Văn Tiến, đất chuyển nhựợng và BĐ_Xu, ông BĐ_Tiến cư trú tại huyện CC, Thành phố HCM nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện CC theo quy định tại Khoản 3 Điều 25, Điểm a Khoản 1 Điều 33, Điểm c Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011.

790/2013/DSST
17-07-2013
Sơ thẩm
790/2013/DSST
TAND cấp tỉnh

Năm 1999 bà NĐ_Nguyễn Lệ Thủy có mua căn nhà số 47 NTH, phường 8, quận PN, thành phố HCM với giá 100 lượng vàng SJC (9999), Do bà là Việt, kiều chưa được Nhà nước cho mua nhà tại Việt Nam vào thời Điểm đó, hơn nữa căn nhà nói trên lúc bà mua đang thuộc diện Nhà nước quản lý (chủ nhà cũ đang làm hồ sơ chuẩn bị được Nhà nước bán hóa giá), nên bà có nhờ vợ chồng người cháu là BĐ_Đỗ Hữu Nguy và BĐ_Lưu Hồng Hân là con của người bạn thân đứng ra thay mặt bà làm thủ tục pháp lý về việc mua bán sang nhượng căn nhà số 47 NTH giúp bà, vợ chồng ông BĐ_Nguy, bà BĐ_Hân đồng ý đề nghị của bà NĐ_Thủy và ngày 22/8/1999 cùng lúc bà NĐ_Thủy giao 100 lượng vàng SJC (9999) cho chủ bán xong, thì vợ chồng ông BĐ_Nguy, bà BĐ_Hân có ký tờ giấy nợ cho bà NĐ_Thủy với nội dung: “Chúng tôi là BĐ_Đỗ Hữu Nguy, BĐ_Lưu Hồng Hân có mượn của cô Tám (tức bà NĐ_Nguyễn Lệ Thủy) số vàng là 100 cây vàng SJC 9999 về việc thay mặt cô Tám sang và mua căn nhà số 47 NTH, phường 8, quận PN, thành phố HCM. Tất cả quyền định đoạt về căn nhà trên do cô Tám quyết định. Chúng tôi cam kết sẽ thực hiện theo những đề nghị mà cô Tám đã tin cậy giao phó giữ gìn”.

87/2013/DS-GĐT
11-07-2013
87/2013/DS-GĐT

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án câp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xem xét giám định dấu vân tay điểm chỉ của cụ Tứ trong “Văn tự bán hoa màu và nhượng đất” ngày 20/4/1981 có phải là dấu vân tay của cụ Tứ hay không là chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án. Nếu tàng thư căn cước của Công an không lưu dấu vân tay của cụ Tứ và đương sự không xuất trình được thì phải căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sơ và thu thập thêm các tài liệu khác để xem xét giải quyết. Bởi lẽ, các đương sự khai cụ Tứ bán đất họ không biết và không nhất trí. Hơn nữa Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng chưa xem xét năm 1981 thì ao Hợp tác xã có còn quản lý không? Năm nào Hợp tác xã mới trả ao và trả cho ai? để xem tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng đất ao.

296/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
05-07-2013
296/2013/DS-GĐT

Tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các đương sự đều xác nhận trước năm 2007 ông BĐ_Nguyễn Văn Ba và bà Trần Thị Tứ (gọi tắt là “vợ chồng ông BĐ_ Ba”) là chủ sở hữu căn nhà diện tích 64,6m2 trên diện tích 128,51m2 tại thửa 99, tờ bản đồ số 41 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 645062 do UBND huyện HM cấp ngày 25/10/2006 (gọi tắt là “64,6m2 nhà đất”. Ông BĐ_Nguyễn Văn Ba là chủ sử dụng diện tích 439m2 đất tại thửa 742-1; 743-1; 745-1 tờ bản đồ số 8 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y935667 do UBND huyện HM cấp ngày 17/5/2004 (gọi tắt là “349m2 đất”). Cả hai diện tích đất trên cùng toạ lạc tại số 12/3 ấp 4, xã XT, huyện HM, thành phố HCM (BL55, 61).

64/2013/DS-GĐT
12-06-2013
64/2013/DS-GĐT

ông, bà yêu cầu ông BĐ_Thôi, bà BĐ_Thoa tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/4/1994 và phải làm thủ tục tách sổ đỏ đối với diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông, bà. Nếu Tòa án công nhận hợp đồng này thì ông, bà vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với anh LQ_Du, chị LQ_Vy và không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông, bà đồng ý trả cho anh LQ_Du, chị LQ_Vy số tiền tương ứng với diện tích đất mà anh LQ_Du, chị LQ_Vy đã trả theo giá tại Biên bản định giá ngày 22/4/2008 là 4 triệu đồng/m2. Trường hợp Tòa án không công nhận hợp đồng này thì ông, bà sẽ có trách nhiệm bồi thường cho anh LQ_Du, chị LQ_Vy do không thực hiện được hợp đồng, việc bồi thường theo giá thị trường. Ông, bà yêu cầu ông BĐ_Thôi, bà BĐ_Thoa thanh toán giá trị quyền sử dụng 5,5m2 đất đã mua của bà LQ_Ngọ và sau đó đã đổi cho ông LQ_Khoa, bà LQ_Lý theo giá thị trường.