cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 184 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
466/2013/DS-ST
07-10-2013
Sơ thẩm
466/2013/DS-ST
TAND cấp huyện

Trong đơn khởi kiện nộp Tòa án ngày 09 tháng 11 năm 2009, các biên bản hòa giải tại Tòa, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 16 tháng 8 năm 2013 và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là NĐ_Phan Thị Hòa trình bày: Năm 2003 bà LQ_Hồ Thị Nguyệt có dẫn bà BĐ_Phùng Thị Thảo đến nhà bà vay của bà 30.000.000 đồng với thời hạn là hai tháng và có thế chấp cho bà giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu. Sau đó bà BĐ_Thảo nói do cần làm giấy tờ nên đã mượn lại giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu và sau đó là không đưa trả lại cho bà. Sau đó thì bà BĐ_Thảo mượn tiếp của bà nhiều lần tiền thỏa thuận tổng cộng là 90.000.000 đồng. Do không có khả năng trả nợ nên bà BĐ_Thảo có dẫn bà vào khu đất chỉ bán cho bà miếng đất chiều ngang 5 mét x chiều dài 30 mét giá là 120.000.000 đồng. Ba đồng ý mua và hai bên đã cùng với con của bà BĐ_Thảo là anh LQ_Đỗ Minh Quân ký kết hợp đồng chuyển nhượng vào ngày 19/5/2004 có sự chứng kiến của anh Nguyễn Vĩnh Thịnh. Sau đó bà đã giao nhiều lần tiền cho bà BĐ_Thảo để đủ tổng cộng tiền mua đất là 120.000.000 đồng.

132/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
28-09-2013
132/2013/DS-GĐT

Căn nhà 129 TTV, phường 11, quận Y trên 158m2 đất do ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan mua của cụ LQ_Châu Kỉnh Sang với giá 50 lượng vàng theo hợp đồng mua bán ngày 4/12/2001. Trước khi bán căn nhà trên, cụ LQ_Sang có báo cho ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan biết rõ tình trạng nhà có 03 hộ gồm: cụ BĐ_Trương Mai, ông BĐ_Ô Bỉnh Thứ và bà Ô Huê Hưng đang ở nhờ tại nhà. Do đó, khi mua nhà, ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan phải thương lượng với họ hoặc nhờ Tòa án giải quyết thì mới được nhận nhà. Ông NĐ_Cần và bà NĐ_Loan đồng ý mua và có đến nhà 129 TTV gặp cụ BĐ_Mai, bà Hưng thông báo về việc ông, bà có ý định mua căn nhà này; cụ BĐ_Mai và bà Hưng không có ý kiến gì. Sau đó, ông NĐ_Cần, bà NĐ_Loan tiến hành hợp đồng mua bán nhà với cụ LQ_Sang.

403/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
20-09-2013
403/2013/DS-GĐT

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/01/2008 và trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị NĐ_Nguyễn Thị Phú trình bày: Chị là con gái của ông Nguyễn Văn Lễ, là cháu của cụ Nguyễn Văn Thành và cụ Dương Thị Trơn. Hai vợ chồng cụ Thành, cụ Trơn có 3 người con: ông Nguyễn Văn Lễ; bà Nguyễn Thị Minh; bà Nguyên Thị Nhỏ..Cụ Thành chết năm 1975; cụ Trơn chết năm 1979; hai cụ chết không để lại di chúc, di sản hai cụ để lại nhà và đất tại ấp Đồng An, xã Binh Hòa, huyện TA, tỉnh BD, hiện do bà Minh quản lý. Ngày 06/3/2000 bà Minh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 1027m2 . Ông Lễ ở VT từ năm 1975. Năm 1997 ông Lễ trở về ở với gia đình bà Minh vài tháng sau đó lại trở về VT. Bà Nhỏ không biết hiện đang ở đâu. Năm 2001 bà Minh chết.

366/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
29-08-2013
366/2013/DS-GĐT

Tại đơn khởi kiện ngày 24/02/2010 và bản tự khai ngày 22/3/2010 nguyên đơn ông NĐ_Lê Thành Trinh trình bày: Năm 2007 ông NĐ_Trinh nhận chuyển nhượng của bà BĐ_Đào Thị Hoa Tiên diện tích 4.150m2 đất tọa lạc tại xã Thạnh Đức, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh với giá 45 cây vàng SJC. Ông NĐ_Trinh đưa cho bà BĐ_Tiên 40 cây vàng, còn lại 05 cây khi sang tên xong ông NĐ_Trinh sẽ trả hết nhưng bà BĐ_Tiên không chịu sang tên. Ông NĐ_Lê Thành Trinh khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà BĐ_Đào Thị Hoa Tiên giao thửa đất trên cho ông NĐ_Trinh.

97/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
12-08-2013
97/2013/DS-GĐT

Tại đơn khiếu nại nhà đất bị chiếm đoạt ngày 01/12/1998 và quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông NĐ_Đỗ Đại Đạo trình bày: Năm 1986, bà NĐ_Lâm Thị Hải (vợ của ông) mua của bà Nguyễn Thị Sét ngôi nhà tường lơp lá gắn liền 500m2 đất có trồng cây ăn trái tại ấp Mỹ Cẩm A, xã Mỹ Hòa, huyện CN (nay là khóm Mỹ cẩm A, xã Mỹ Hòa, thị trấn CN), tỉnh TV. Sau khi mua, ông bà và các thành viên trong gia đình đến ở nhà đất này. Ngày 01/01/1989, bà NĐ_Hải làm “Tờ ủy quyền” và “Tờ di chúc” cho chị Đỗ Hải Phượng (con của ông và bà NĐ_Hải) sở hữu nhà đất nêu trên. Ông có xác nhận phía sau di chúc là: di chúc do bà NĐ_Hải viết; nội dung, chi tiết, quan hệ gia đình là đúng sự thật; nhất trí với bà NĐ_Hải là cho chị Phượng làm chủ nhà đất.