cơ sở dữ liệu pháp lý


Những tranh chấp sau đây có thể hoặc đã xảy ra đối với loại hợp đồng này. Vui lòng tham khảo chi tiết từng vụ việc để phòng tránh rủi pháp lý có thể xảy ra
Tìm được 184 vụ tranh chấp đã xảy ra đối với loại HĐ này.
03/2014/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất
09-01-2014
03/2014/DS-GĐT

Theo đơn khởi kiện ngày 30-10-2009 và trong quá trình tố tụng, ông Lâm Thành Gia và bà Nguyễn Thị Hồng Thắm, là đại diện theo ủy quyền của ông Gia trình bày: Ngày 15-3-2006, ông Phạm Hồng Thanh và bà Nguyễn Thị Lập ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ông Gia toàn bộ nhà, đất tại số 21 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000 lượng vàng SJC. Sau khi ký kết hợp đồng, ông Gia đã trả cho ông Thanh, bà Lập 100 lượng vàng SJC, 500.000.000đ (tương đương với 44,24 lượng vàng SJC) và2.000 USD, việc giao nhận vàng có chữ ký của ông Thanh. Ông Thanh, bà Lập đã sử dụng số tiền này để nộp tiền mua căn nhà số 21 Phùng Khắc Khoan của nhà nước theo Nghị định số 61/CP. Sau đó, ông Thanh, bà Lập đã không tiếp tục thực hiện hợp đồng bán nhà cho ông Gia.

03/2014/DS-GĐT
09-01-2014
03/2014/DS-GĐT

Theo đơn khởi kiện ngày 30-10-2009 và trong quá trình tố tụng, ông Lâm Thành Gia và bà Nguyễn Thị Hồng Thắm, là đại diện theo ủy quyền của ông Gia trình bày: Ngày 15-3-2006, ông Phạm Hồng Thanh và bà Nguyễn Thị Lập ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ông Gia toàn bộ nhà, đất tại số 21 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000 lượng vàng SJC. Sau khi ký kết hợp đồng, ông Gia đã trả cho ông Thanh, bà Lập 100 lượng vàng SJC, 500.000.000đ (tương đương với 44,24 lượng vàng SJC) và 2.000 USD, việc giao nhận vàng có chữ ký của ông Thanh. Ông Thanh, bà Lập đã sử dụng số tiền này để nộp tiền mua căn nhà số 21 Phùng Khắc Khoan của nhà nước theo Nghị định số 61/CP. Sau đó, ông Thanh, bà Lập đã không tiếp tục thực hiện hợp đồng bán nhà cho ông Gia.

615/2013/DS-GĐT: Tranh chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
25-12-2013
615/2013/DS-GĐT

Theo Đơn khởi kiện ngày 08/10/2007 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - cụ NĐ_Nguyễn Thị Khoa, đại diện theo ủy quyền là bà LQ_Dương Thị Bình (con gái cụ NĐ_Khoa) trình bày: Năm, 1940, cụ Dương Khối và cụ NĐ_Nguyễn Thị Khoa (cha mẹ bà LQ_Bình) tạo lập được khu vườn có diện tích 1.500m2; năm 1963 xây dựng được 02 gian nhà, nay tọa lạc tại phường AP, thành phố TK, tỉnh QN. Cha mẹ bà có con là ông Dương Văn Khối. Ông Khối có vợ là bà Trương Thị Đấu và con là Dương Thị Hoa. Sau khi bà Đấu chết, đến năm 1983, ông Khối lấy vợ là bà BĐ_Doãn Thị Hoa. Do hoàn cảnh của ông Khối, nên cha mẹ bà cho vợ chồng ông Khối ở khu đất trong vườn.

539/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
28-11-2013
539/2013/DS-GĐT

Theo đơn khởi kiện ngày 29/06/2009 và những lời khai tiếp theo, ông NĐ_Phạm Ngọc Thịnh trình bày: Năm 1998, ông BĐ_Nguyễn Văn Bình chuyển nhượng cho ông phần đất lúa diện tích 2000m2 thửa số 1128 tờ bản đồ số 02 do ông BĐ_Nguyễn Văn Bình đứng tên quyền sử dụng đất với giá là 03 cây vàng, quy ra tiền lúc đó là 15.000.000 đồng. Hai bên có lập giấy tờ mua bán, ông đã giao vàng đầy đủ cho ông BĐ_Nguyễn Văn Bình và được giao đất sử dụng từ năm 1998 đến nay. Ông giao lại đất cho cháu là LQ_Bạch Văn Tiến quản lý canh tác. Ông BĐ_Nguyễn Văn Bình đã giao cho ông giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đi làm thủ tục chuyển nhượng nhưng do bận công việc nên ông chưa thực hiện. Sau đó, ông BĐ_Nguyễn Văn Bình mượn lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục vay vốn ngân hàng vài tháng, vì tình nghĩa chòm xóm nên ông giao lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông BĐ_Bình.

560/2013/DS-GĐT: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
28-11-2013
560 /2013/DS-GĐT

Nguyên đơn ông NĐ_Lê Văn Chấn trình bày: Ông và vợ là bà LQ_Lê Ngọc Minh vay của vợ chồng bà BĐ_Ngô Thị Dương, ông LQ_Mai Văn Khoa nhiều làn với số tiền vốn và lãi là 344.000.000 đồng. Do không có khả năng thánh toán nên vợ chồng ông thỏa thuận giao cho vợ chồng bà BĐ_Dương 30 công ruộng nuôi tôm, bà BĐ_Dương tính toán đất có giá 252.000.000 đồng nên chỉ trừ 252.000.000 đồng tiền vay và quy đổi thành 360 chỉ vàng 24 kra, số tiền còn lại là 92.000.000 đồng (344.000.000 — 252.000.000 = 92.000.000 đồng) vợ chồng ông bà làm biên nhận nợ với bà BĐ_Dương. Việc quy đổi, tính nợ như vậy là do bà BĐ_Dương tính và hai bên có làm “Tờ sang nhượng đất nuôi tôm” vào ngày 28/3/2004 và ghi giá là 360 chỉ vàng 24k nhưng thực chất ông bà không nhận vàng. Nay vợ chồng ông bà yêu cầu hủy giấy tay chuyển nhượng đất nuôi tôm nêu trên, ông bà đồng ý trả cho vợ chồng bà BĐ_Dương 148.000.000 đồng tiền vay nợ ban đầu.